17 C
Hanoi
Thứ Ba, 19 Tháng Ba, 2024

Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa 

Print Friendly, PDF & Email

Thanh Hóa hiện có khoảng 10.000 doanh nghiệp tư nhân (DNTN), chiếm trên 90% số doanh nghiệp cả tỉnh. Hằng năm, tỷ trọng đóng góp GRDP của khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả hộ kinh doanh cá thể là 64%, lớn nhất so với các thành phần kinh tế khác và giải quyết việc làm cho trên 570.000 lao động. Dù có vị trí và vai trò quan trọng song trong quá trình hoạt động, khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) của tỉnh vẫn gặp những khó khăn liên quan đến quy mô phát triển, khả năng tài chính, trình độ công nghệ, quản trị, chất lượng sản phẩm, tính liên kết và sức cạnh tranh.

Từ khóa: doanh nghiệp tư nhân (DNTN), kinh tế tư nhân (KTTN), hộ kinh doanh, khả năng tài chính, quản trị, chất lượng, công nghệ, HĐH, CNH

*Tác giả:NCS. ThS. Nguyễn Xuân Hưng

Email: xuanhungnguyen@gmail.com

Cơ quan công tác: Công ty Xuân Hưng

——————————————–

Ngày nhận bài 05/05/2019

Ngày đăng xuất: 20/6/2019

————————————-

Cơ sơ lý luận về định hướng phát triển kinh tế tư nhân

 Tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển bền vững, khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) là nguồn lực của sức mạnh kinh tế, vốn tri thức, là niềm tự hào của dân tộc. Tại Việt Nam, khu vực KTTN đã trải qua nhiều biến động trong suốt hai thập niên qua. Kể từ khi nhà nước từ bỏ vai trò độc quyền hoạt động kinh tế và công nhận thành phần KTTN, khu vực này không ngừng lớn mạnh. Có thể nói, sự phát triển của khu vực KTTN cùng với chính sách mở cửa mậu dịch đã trở thành nhân tố chính dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam.

Tại Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986), Đảng ta chủ trương: “Xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa định hướng XHCN với cơ cấu nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế tham gia. Trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế nước nhà; KTTN bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân là bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.

Bước chuyển biến  mới về tư duy đối với KTTN được thể hiện rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Trung ương Khóa IX ( 3/2002). Theo Nghị quyết,  ” KTTN là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển KTTN  là vấn đề chiến  lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nhghĩa”.

Trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế, đặc biệt là KTTN đã có sự thay đổi căn bản so với trước đây. Tại Đại hội X, Đảng khẳng định rằng, KTTN có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Việc đổi mới nhận thức về vị trí và vai trò của KTTN như trên thể hiện sự đánh giá một cách khách quan và khoa học hơn về khu vực kinh tế này.

Từ quan điểm đó, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chính sách lớn nhằm hỗ trợ cho khu vực KTTN phát triển. Các ngành, các địa phương thực hiện nhất quán chính sách đối với KTTN, tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi, an toàn, tin cậy, hấp dẫn để thu hút các nguồn đầu tư của KTTN (cả trong và ngoài nước) để có thể thúc đẩy phát triển sản xuất, công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH), tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội theo phương hướng và mục tiêu xác định.

Các chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực KTTN, tập trung vào vấn đề: Chính sách và giải pháp hỗ trợ về tài chính nhằm tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng và huy động các nguồn lực hỗ trợ tài chính cho khu vực KTTN; Ban hành các nhóm giải pháp nhằm hỗ trợ về mặt bằng sản xuất;  Chính phủ đẩy mạnh cải cách hành chính tạo thuận lợi cho khu vực kinh tế tư;  Chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ, hỗ trợ thay đổi, cải tiến, HĐH trang thiết bị sản xuất;  Chính sách và biện pháp nhằm nâng cao trình độ nguồn nhân lực.  Chính phủ thương xuyên rà soát, bổ sung quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề đáp ứng nhu cầu lao động có tay nghề cho khu vực KTTN ….

Thực tế cho thấy, KTTN  ngày càng chứng tỏ vai trò của nó, trở thành một khu vực kinh tế năng động để các khu vực kinh tế khác phấn đấu vươn lên, tự đổi mới, tự hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm gắn liền với chủ trương đúng đắn của Đảng về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.

Những thành tựu kinh tế quan trọng đạt được qua 20 năm đổi mới đất nước là bằng chứng sinh động, xác nhận một cách thuyết phục sự khởi sắc của nền kinh tế nói chung và triển vọng tiềm tàng của KTTN nói riêng. Bởi vậy, phát triển KTTN  là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, lâu dài trong tiến trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây có thể coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới của đất nước trong những năm sắp tới.

Định hướng phát triển của tỉnh Thanh Hóa là đẩy mạnh phát triển toàn diện KTTN trên địa bàn tỉnh, đảm bảo hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, góp phần phát triển kinh tế – xã hội nhanh, bền vững, nâng cao đời sống vật chất và mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an ninh, sớm đưa Thanh Hóa trở thành tỉnh khá của cả nước vào năm 2020; cụ thể là: Đến năm 2020, toàn tỉnh có trên 20.000 doanh nghiệp hoạt động, đạt trên 56 doanh nghiệp/vạn dân; Khu vực KTTN  đóng góp khoảng 65% tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh. Bình quân giai đoạn 2016 – 2020: đầu tư của doanh nghiệp chiếm trên 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội;  Số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong 5 năm (2016 – 2020) đạt khoảng 200.000 người. Năng suất lao động xã hội bình quân hàng năm tăng 11,8%/năm.

Các giải pháp phát triển KTTN của tỉnh Thanh Hóa

Nhằm xác định đúng đắn vai trò của KTTN và phát huy hiệu quả tiềm năng của nền kinh tế này trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế  – xã hội của địa phương, Thanh Hóa cần tập trung vào những giải pháp sau:

Thứ nhất, Hoàn chỉnh khung giải pháp về nâng cao nhận thức

Tỉnh Thanh Hóa cần xác định đúng đắn vai trò quan trọng của khu vực KTTN trong nền kinh tế, cải thiện nhận thức của xã hội về khu vực kinh tế này. Phương hướng cơ bản hiện nay là hạn chế và giảm thiểu những yếu tố cản trở trong môi trường kinh doanh nhằm hạn chế những rủi ro mà khu vực KTTN đang gặp phải. Để giải quyết vấn đề này Đảng và chính quyền địa phương cần tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của KTTN  trong các văn bản, nghị quyết chính thức, phải thực sự coi KTTN là một bộ phận năng động, tích cực của nền kinh tế tỉnh. Cần phải có sự tuyền truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng những ưu điểm của thành phần kinh tế tư nhân để thay đổi những quan điểm sai lầm về KTTN.

Đặc biệt, chính quyền tỉnh Thanh hóa cần thay đổi nhận thức về vai trò của khu vực KTTN trong việc đảm bảo sự phát triển thực sự của nền kinh tế trong khuôn khổ cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, phải luôn nhận thức rằng, KTTN  là mới và nó cùng với khu vực kinh tế nhà nước hợp thành nền tảng phát triển của địa phương, là sinh lực, là động lực quan trọng.

Thứ hai, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước:

Thanh Hóa cần có định hướng chiến lược cho sự phát triển của KTTN, hướng  sự phát triển của khu vực kinh tế này này vào những ngành, nghề có lợi thế so sánh của tỉnh. Có chính sách hỗ trợ KTTN liên kết hợp tác với các thành phần kinh tế khác. Do vậy cần phải đảm bảo sự lãnh đạo của chính quyền thông qua pháp luật, chính sách trực tiếp đối với KTTN, tạo sự thống nhất trong nhận thức của toàn hệ thống Đảng, chính quyền, tạo tâm lý thuận lợi cho sự phát triển của KTTN. Trong thời gian tới, tỉnh cần chú trọng những điểm sau:

Một là, Tăng cường xử lý và giải quyết những vi phạm để bảo vệ lợi ích chính đáng cho các doanh nghiệp. Cần xóa bỏ mọi kỳ thị, xóa bỏ những thể chế, chính sách còn thể hiện sự phân biệt đối xử giữa kinh tế nhà nước với KTTN, giữa DNNN với doanh nghiệp tư nhân (DNTN).

Hai là, Tạo môi trường thuận lợi khuyến khích doanh nghiệp khu vực tư nhân (DNTN) phát triển sản xuất, kinh doanh không hạn chế về quy mô trong những lĩnh vực có lợi cho kinh tế tỉnh.

Ba là, Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền tỉnh  theo hướng nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản chính sách, cải cách thủ tục hành chính của địa phương phù hợp với quá trình phát triển của KTTN , xây dựng môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận với các nguồn vốn tài chính, đất đai, lao động, công nghệ và thông tin thị trường theo hướng chính sách phải nhất quán, minh bạch, đồng bộ và xóa bỏ phân biệt đối xử.

Bốn là,  Xác định rõ chức năng quản lý Nhà nước đối với khu vực KTTN của tỉnh. Đó là: xây dựng các chính sách đặc thù của địa phương đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh; xây dựng quy hoạch và trợ giúp đào tạo các bộ quản lý cho doanh nghiệp; tích cực kiểm tra việc thực hiện pháp luật, chế độ, chính sách của Nhà nước của các hộ kinh doanh và doanh nghiệp.

Năm là, Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trên địa bàn tỉnh. Việc cải cách hành chính là nhiệm vụ rất quan trọng. Song, cơ bản hơn, chính là việc rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, cũng tức là xem xét và xác đinh rõ sự “phân vai” của ba tác nhân trong kinh tế thị trường: Nhà nước – Thị trường – Xã hội dân sự. Từ đó, xác định rõ chính quyền cần làm những gì và không nên hoặc không cần làm những gì, mà nên chuyển giao cho thị trường hoặc các tổ chức xã hội dân sự thực hiện, nhự vậy sẽ đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao hơn, tránh lãnh phí, thất thoát.

Thứ ba, Định hướng thúc đẩy phát triển mạnh mẽ nguồn nhân lực

Để định hướng triển nguồn nhân lực khu vực KTTN, Thanh Hóa cần tập trung vào một số lĩnh vực: (i) Cần có chính sách khuyến khích tiến hành các hoạt động đào tạo dạy nghề, nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động. Tỉnh có thể cấp lại một phần hay toàn bộ số tiền thuế thu nhập mà các cơ sở đào tạo, dạy nghề nộp vào ngân sách dùng vào đầu tư phát triển; (ii) Chính quyền tỉnh cần có sự hỗ trợ về vấn đề đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề. Trong những năm gần đậy, với sự phát triển về số lượng, DNTN đã tạo nhiều việc làm cho xã hội song chủ yếu là lao động có trình độ thấp còn những người có trình độ cao lại không muốn làm việc cho khu vực tư nhân. Do vậy, ngay trong quá trình đào tạo Nhà nước phải chú trọng giáo dục ý thức xã hội nhằm tạo cho những người học hiểu được sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để họ có những hướng đi đúng đắn.

Thứ tư, Định hướng, đảm bảo vốn hoạt động của khu vực KTTN

    Tỉnh cần phải có sự đổi mới toàn diện phương thức hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại, đảm bảo sự công bằng khi cho vay đối với mọi thành phần kinh tế, đồng thời phải xử lý nghiêm minh những vi pham, tiêu cực của những người thi hành chính sách tín dụng. Các ngân hàng phải mạnh dạn cho khu vực tư nhân vay vốn dựa vào tính khả thi của các dự án.

      Về phía chính quyền, Tỉnh phải tạo môi trường pháp lý để DNTN có thể tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi. Phải có chính sách cho vay ưu đãi cho nhưng ngành hay sản phẩm chú trọng không phân biệt các thành phần kinh tế nhằm tạo điều kiện cho khu vực KTTN phát triển.

Thứ năm, Thúc đẩy sự phát triển kết cấu hạ tầng.

 Gồm bảy nội dung:  Một là, Phát triển cơ sở hạ tầng và các dịch vụ thị trường, chú trọng vào việc cung cấp thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin.

 Hai là, Để khắc phục tình trạng này tỉnh cần tham vấn ý kiến chính quyền trung ương và đưa ra một khung pháp lý cho việc thành lập và hoạt động của các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh.

Ba là,Tình cần có các giải pháp để nâng cao hiệu quả đầu tư công; phân bổ nguồn lực đầu tư công theo hướng bố trí cho các công trình hạ tầng quan trọng, liên vùng, có tính then chốt và sức lan tỏa trong lĩnh vực giao thông, thủy lợi, cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc..; tập trung kêu gọi vốn xã hội hóa cho các lĩnh vực hạ tầng khác.

Bốn là, Thường xuyên đấu mối chặt chẽ với các Bộ, ngành Trung ương nhằm tranh thủ tối đa các nguồn vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, vốn ODA, vốn đầu tư của các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước cho đầu tư kết cấu hạ tầng.  Phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban Quản lý Khu kinh tế Nghi Sơn và các khu công nghiệp và các ngành, đơn vị liên quan, tiếp tục rà soát, kiểm tra các dự án đã được chấp thuận chủ trương, địa điểm đầu tư nhưng chưa triển khai hoặc chậm triển khai thực hiện so với quy định, đề xuất với UBND tỉnh có biện pháp xử lý, thu hồi, chấm dứt dự án theo quy định.

Năm là, Rà soát các quy hoạch chung xây dựng phát triển đô thị để lập điều chỉnh quy hoạch chung, quy hoạch phân khu theo quy định; lập các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết xây dựng các khu đô thị mới, báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt, làm cơ sở quản lý chặt chẽ quá trình phát triển đô thị theo quy hoạch, kế hoạch.

Sáu là, Xây dựng các giải pháp để từng bước phát triển đồng bộ, hiện đại hệ thống giao thông, đảm bảo kết nối các vùng, các đầu mối giao thông quan trọng, các khu kinh tế động lực và giữa các phương thức vận tải; nâng cao năng lực vận tải, đáp ứng nhu cầu vận tải đa phương tiện của các doanh nghiệp.

       Bảy là, Ban Quản lý các cụm công nghiệp lớn khẩn trương hoàn thành Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Nghi Sơn đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2050, trình duyệt theo quy định; phối hợp với các sở, ban, ngành và các đơn vị liên quan tập trung bố trí vốn hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng trong khu kinh tế, các khu công nghiệp.

     Thứ sáu, Nâng cao năng lực cạnh tranh của KTTN

Để nâng cao năng lực cạnh tranh khu vực KTTN cần thực hiện tốt các công tác sau: Một, Không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư đổi mới trang thiết bị để tăng năng suất lao động, giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm.

Hai, Làm tốt công tác tiếp thị để ổn định và mở rộng thị phần. Không ngừng nâng cao trình độ kinh doanh, điều hành, quản lý doanh nghiệp của đội ngũ quản lý. Cần phải có những chiến lược phát triển lâu dài, có chính sách đối phó với các đổi thủ cạnh tranh trên thị trường.

Ba, Tăng cường mối quan hệ liên kết, hợp tác, cung cấp phụ kiện từ các DNTN trong nước. Điều này, không những sẽ giúp hạ giá thành sản phẩm mà còn là cơ hội để các DNTN cải thiện hoạt động sản xuất và phát triển kinh doanh. Trực tiếp tham gia các ngành sản xuất và hoạt động xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho các DNTN trong nước tiếp cận, làm quen với thị trường và công nghệ tiên tiến trên thế giới, cải thiện năng suất.

Thứ bảy, Hoàn thiện các chính sách cho phát triển KTTN

Một là,  Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô: Các sở, ban, ngành cấp tỉnh, UBND các huyện, thị xã, thành phố, theo chức năng nhiệm vụ được giao, tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; tổ chức thực hiện có hiệu quả  Đề án tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 và các nghị quyết, chương trình, kế hoạch hành động của Trung ương, của tỉnh về tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Hai là, Hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách thu hút đầu tư từ tư nhân và bảo đảm hoạt động của KTTN theo cơ chế thị trường; Tăng cường hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn; quan tâm phát triển một số doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế mạnh, có đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.

Ba là, Xây dựng kế hoạch, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh để triển khai thực hiện sau khi Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa có hiệu lực thi hành, báo cáo UBND tỉnh

Bốn là, Hoàn thiện quy hoạch phát triển KTTN.

Năm là, Hoàn thiện chính sách cạnh tranh và mở rộng khả năng tham gia thị trường, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng: Chủ động thực hiện các giải pháp bình ổn thị trường, bảo đảm cân đối cung cầu thị trường hàng hóa; tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, kịp thời xử lý nghiêm các trường hợp kinh doanh buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, cạnh tranh không lành mạnh.

Sáu là, Xây dựng chính sách tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực: Thực hiện công bố công khai Quy hoạch sử dụng đất của tỉnh đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2016 – 2020); công khai quỹ đất chưa sử dụng theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được duyệt; tạo điều kiện thuận lợi để KTTN tiếp cận quỹ đất. Hoàn thành công tác đo đạc bản đồ, lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo kế hoạch hàng năm được UBND tỉnh giao;…

Bảy là, Chính quyền tỉnh cần đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho KTTN phát triển

Tám là, Xây dựng chính sách hỗ trợ  KTTN đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ: Kêu gọi thu hút đầu tư để sớm xây dựng khu công nghệ thông tin tập trung; xây dựng cơ chế, chính sách thu hút các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm phần mềm, nội dung số chất lượng cao

Thứ tám,  Nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc các cấp, các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp đối với phát triển KTTN

Các sở, ban, ngành, đơn vị cấp tỉnh và UBND các huyện, thị xã, thành phố tăng cường phối hợp, cung cấp trao đổi thông tin với Mặt trận Tổ quốc các cấp, các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp để thực hiện tốt công tác tuyên truyền các quan điểm, định hướng, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển KTTN; tăng cường tham gia giám sát việc thực hiện các cơ chế, chính sách, đảm bảo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp phát triển KTTN thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

    Kết luận

Định hướng chung của Đảng và nhà nước về phát triển KTTN hiện nay là rất rõ ràng, với các nghị quyết đại hội của Đảng tới các chính sách của chính phủ được ban hành cho thấy, đổi mới và phát triển khu vực KTTN là một trong những nhiệm vụ quan trọng được đặt lên hàng đầu trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội hiện nay.

Cùng với đó, tỉnh Thanh Hóa cũng đã xây dựng những định hướng cụ thể để phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh. Theo đó, tỉnh đã đặt ra mục tiêu đến năm 2020 về phát triển số lượng doanh nghiệp, quy mô, giá trị đóng góp cho GDP, năng suất sao động…Để đạt được những mục tiêu đó, cần thiết phải có khung giải pháp phù hợp để xây dựng các chính sách cụ thể cho phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh.

———————————————-

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Quyết định Số: 1299/QĐ-UBND ngày 13 tháng 4 năm 2018 Ban hành kế hoạch hành động thực hiện Nghi Quyết số 10 – NQ/TW ngày 03/06/2017 của hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
  2. Đặng Minh Tiến, Vai trò và tác động của KTTN đối với sự nghiệp

đổi mới đất nước, http://www.vhdn.vn;

  1. GTS. Hồ Văn Vĩnh, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta, Tạp chí Lý luận Chính trị, 2007;
  2. Lê Duy Bình, Đậu Anh Tuấn, Phạm Ngọc Thạch, rà soát một số chỉ tiêu và chính sách nhằm nâng cao chất lượng doanh nghiệp tư nhân trong thập niên tới, Economica Vietnam, 2010;
  3. Lê Văn Sang; cục diện kinh tế thế giới hai thập niên đầu thế kỷ XXI, 2005
  4. T Nguyễn Đăng Nam, Tài chính với sự phát triển KTTN, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, 2002;
  5. PG TS. Nguyễn Đình Tài, Khuyến  khích phát triển khu vực KTTN Việt Nam nhìn từ góc độ hiệu quả chính sách, www.vnep.org.vn, 2006
  6. Niên giám thống kê 2009, Nhà xuất bản Thống kê, 2009;
  7. Phạm Chi Lan, Phát triển khu vực KTTN trong bối cảnh hội nhập quốc tế, http://www.tapchicongsan.org.vn;
  8. Trần Bình, Khu vực KTTN – nguồn huyết mạch chưa khai thông,

www.vnep.org.vn;

  1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Văn kiện Đại hội VII, Văn kiện Đại hội VIII, Văn kiện Đại hội IX, Văn kiện Đại hội X;

Bài viết liên quan