33.7 C
Hanoi
Thứ Năm, 26 Tháng 6, 2025

ESCO – Mô hình xã hội hóa, tiềm năng, rào cản và giải pháp phát triển

Đặt vấn đề: Công ty dịch vụ năng lượng (ESCO) là loại hình công ty mà mô hình kinh doanh là sử dụng các hợp đồng hiệu quả năng lượng làm cơ sở để trả công cho mình khi thực hiện các dự án tiết kiệm năng lượng (TKNL). ESCO thực hiện các dự án TKNL vì lợi ích của khách hàng bằng cách hướng đến giải quyết các rào cản tự nhiên của thị trường. Và ESCO cung cấp dịch vụ cho khách hàng thông qua Hợp đồng hiệu quả năng lượng (EPC). Ở Việt Nam ESCO đang là một mô hình còn khá mới mẻ, với một quốc gia đang phát triển, thị trường phát triển mô hình kinh doanh ESCO ở Việt Nam được đánh giá có tiềm năng trong điều kiện Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững đang được các cấp, các ngành, địa phương và xã hội thực hiện rộng rãi. Tuy nhiên để mô hình ESCO phát triển rộng rãi, hiệu quả, bền vững, đặc biệt trong lĩnh vực chiếu sáng đô thị đang còn là những khó khăn, thách thức và giải pháp đề xuất được nhóm tác giả đề cập trong bài viết

TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ESCO CỦA VIỆT NAM

ESCO, mô hình đầu tư hai bên cùng có lợi

Nhằm huy động, phát huy các nguồn lực trong cộng đồng xã hội, giảm bớt gánh nặng đầu tư ngân sách Nhà nước, việc xã hội hóa các công trình dịch vụ năng lượng ngày càng phát huy hiệu quả, đã và đang được các quốc gia phát triển mạnh mẽ. Công ty dịch vụ năng lượng (ESCO) là loại hình công ty mà mô hình kinh doanh là sử dụng các hợp đồng hiệu quả năng lượng làm cơ sở để trả công cho mình khi thực hiện các dự án tiết kiệm năng lượng (TKNL). ESCO thực hiện các dự án TKNL vì lợi ích của khách hàng bằng cách hướng đến giải quyết các rào cản tự nhiên của thị trường. Còn khách hàng của ESCO thì không phải bỏ vốn đầu tư nhưng được cung cấp các giải pháp năng lượng toàn diện bao gồm kiểm toán năng lượng, lập kế hoạch, xây dựng, lắp đặt, vận hành và bảo trì cơ sở hạ tầng năng

lượng. Qua đó, không những khách hàng giảm được chi phí năng lượng mà còn kiểm soát tình hình sản xuất, tăng tính cạnh tranh. Đồng thời, được ESCO chia sẻ lợi nhuận từ các khoản chi phí năng lượng tiết kiệm được, được hưởng toàn bộ hệ thống thiết bị năng lượng mà ESCO đã đầu tư sau thời hạn thỏa thuận  hoàn trả chi phí đầu tư ban đầu giữa hai bên và được đảm bảo hoàn toàn về lượng điện năng và chi phí tiết kiệm được trong thời gian thực hiện hợp đồng.

Tiềm năng và cơ hội

Tháng 6 năm 2017, với mục tiêu tăng cường hợp tác, đối thoại và trao đổi kinh nghiệm cũng như kiến thức cho Ngành Năng lượng của đất nước, Chính phủ Việt Nam cùng các Đối tác phát triển quốc tế thành lập do Nhóm Đối tác năng lượng Việt Nam (VEPG). Mục tiêu chung của VEPG là sử dụng hiệu quả hỗ trợ quốc tế cho phát triển năng lượng bền vững tại Việt Nam, phù hợp với luật pháp quốc gia và các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Nằm trong chương trình hoạt động, Hội thảo ‘ESCO, mô  hình kinh doanh trong tương lai của Việt Nam – Bài học rút ra từ hoạt động, mô hình ESCO quốc tế và quốc gia’ đã được nhóm VEPG tổ chức tại TPHCM. Hội thảo đã tập trung các vấn đề về ESCO, nhằm chia sẻ kinh nghiệm phát triển mô hình Công ty Dịch vụ Năng lượng (ESCO) tại Việt Nam và nâng cao nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc điều chỉnh khung chính sách phù hợp cho mô hình này trong tương lai; nhiều chủ đề đã được đưa ra thảo luận như khung pháp lý hiện tại cho ESCO tại Việt Nam, đánh giá từ các chuyên gia pháp lý, và cơ chế tài chính trong lĩnh vực hiệu quả năng lượng. Các diễn giả cũng chia sẻ kinh nghiệm về phát triển mô hình ESCO tại Việt Nam và trên thế giới, những bài học đúc rút từ các dự án ESCO thành công, cũng như kinh nghiệm vượt qua rào cản khi triển khai mô hình kinh doanh ESCO. Các diễn giả đều thống nhất đánh giá Việt Nam là quốc gia đang phát triển do kinh tế phát triển có nhu cầu hơi – nhiệt – điện tăng Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư sản xuất tại Việt Nam đã và đang quen với hoạt động ESCO, đảm bảo an toàn vận hành, không ô nhiễm môi trường. Những lĩnh vực đầu tư ESCO tiềm năng hiện nay có thể kể đến là cơ sở hạ tầng (chiếu sáng), trung tâm thương mại, khu công nghiệp/nhà máy, dịch vụ mua bán điện, năng lượng tái tạo… nên có nhiều tiềm năng phát triển ESCO

Vướng mắc, rào cản

Rõ ràng, đây là một mô hình đang được các doanh nghiệp rất ủng hộ và sẽ có tiềm năng lớn để phát triển. Tuy nhiên, hiện hoạt động của các ESCO đang gặp nhiều khó khăn cần tháo gỡ. Theo thống kê, hiện nay Việt Nam có khoảng 100 đơn vị hoạt động trong lĩnh vực tư vấn dịch vụ TKNL. Nhưng trên thực tế số lượng đơn vị đăng ký hoạt động ESCO và có hoạt động theo mô hình ESCO còn rất hạn chế. Số lượng các đơn vị thành công trong lĩnh vực này không nhiều. Nguyên nhân là do cơ chế.

Trong lĩnh vực Năng lượng

a/ Thiếu cơ chế, hỗ trợ tài chính cho việc phát triển và triển khai các dự án TKNL. Đây là một trong những nút thắt lớn nhất mà hầu hết các ESCO đều vướng khi triển khai các dự án. Thực tế tại Việt Nam các ESCO mới tập trung vào doanh nghiệp vừa và nhỏ chứ chưa phải là doanh nghiệp lớn. Khi cung cấp các giải pháp, hầu hết doanh nghiệp ít khi bỏ tiền túi ra để đầu tư vì tâm lý ăn chắc, chỉ khi ESCO chứng minh được hiệu quả tết kiệm thì doanh nghiệp mới bỏ tiền. Điều đó tạo áp lực lớn cho ESCO là phải đi vay để lấy vốn đầu tư. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là một ví dụ. Ông Trần Viết Nguyên – Phó trưởng Ban Kinh doanh EVN cho biết, trong khi Chính phủ chưa thống nhất về cơ chế tài chính cho hoạt động của các ESCO, thì các ngân hàng cũng rất e ngại trong việc cho ESCO vay vốn đầu tư các dự án TKNL. Ông Nguyên kiến nghị, rất mong trong thời gian tới Chính phủ tiếp tục nghiên cứu ban hành các chính sách thực sự thiết thực và phải giúp cho các ESCO ít nhất là thời điểm đầu để họ đứng vững mở rộng thị trường, lúc đó thị trường ESCO mới phát triển được.

b/ Cơ chế chia sẻ lợi nhuận do chưa có cơ chế rõ ràng trong vấn đề này, nên hiện nay một số nhà đầu tư ESCO đang bị vướng không lấy được phần lợi nhuận sau tiết kiệm. Cụ thể như một nhà đầu tư ESCO vào hệ thống chiếu sáng công cộng. Sau khi hệ thống hoạt động, khách hàng trả tiền điện theo hóa  đơn do EVN cung cấp. Phần chênh lệch nhờ tiết kiệm do không có cơ chế qui định nên không thể lấy ra để trả cho nhà đầu tư, khiến cho các doanh nghiệp ESCO gặp khó khăn, không hồi được vốn đầu tư ban đầu. Ông Võ Hữu Thiện – Giám đốc Trung tâm TKNL Tiền Giang cho biết, cả điện sạch hòa lưới cũng chưa có cơ chế giá mua là bao nhiêu, nên rất nhiều nhà đầu tư muốn đầu tư điện tái tạo (điện mặt trời, phong điện) lại chưa làm được do vướng cơ chế. Do đó, bà Lê Thị Thúy Hồng – Đại diện khu vực phía Bắc, Công ty CP Đầu tư và phát triển năng lượng mặt trời Bách khoa SolarBK, đề xuất, Chính phủ nên đưa ra cơ chế chính sách nào đó để người tiêu dùng có thể bán lại điện cho nhà nước. Ví dụ, Người đân ( NĐT) lắp điện mặt trời ở nhà, nhưng có thể đi vắng một vài năm. Khi đó, NĐT đăng ký đưa điện lên lưới, coi như Nhà nước trả tiền mua điện cho NĐT. Như vậy, sẽ khuyến khích người dân quan tâm tới các hình thức TKNL bởi NĐT sẽ có lợi khi thực hiện.

Cầu vượt Nguyễn Văn Huyên – Hà Nội (sử dụng cột thép và chóa đèn LED Toby do Hapulico sản xuất)

c/ Rào cản trong hoạt động truyền thông, được các ESCO đánh giá có vai trò vô cùng quan trọng là đơn vị chủ chốt triển khai các hoạt động TKNL, trong đó có mô hình ESCO. EVN là đối tác và cũng là nhà cung cấp hệ thống năng lượng điện quốc gia, Tập đoàn EVN cho rằng, việc tuyên truyền đến người dân về các giải pháp TKNL còn rất hạn chế. Mặc dù EVN sẵn sàng tư vấn miễn phí, miễn sao ngày càng nhiều các doanh nghiệp quan tâm áp dụng các giải pháp TKNL, nhưng nếu chỉ riêng EVN làm công tác tuyên truyền thì không đủ. Mà các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ESCO cần có thêm tiếng nói, hành động trong công tác tuyên truyền đi theo các dự án để giúp nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, người dân, tạo hiệu ứng lan tỏa trong cộng đồng về những lợi ích của các giải pháp mà ESCO mang lại.

Ông Huỳnh Văn Ngộ – Phó Giám đốc Sở KHCN Đà Nẵng cũng cho rằng, cách quảng bá tuyên truyền về TKNL chưa đủ mạnh và chưa hiệu quả. Doanh nghiệp, người dân chưa thấy được lợi ích của các giải pháp TKNL, những ảnh hưởng của việc sử dụng năng lượng không tiết kiệm và hiệu quả không được thể hiện rõ nét, thì doanh nghiệp và người dân chưa có ý thức tham gia. Do đó, cần đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá để doanh nghiệp hiểu ngoài việc TKNL, còn bảo vệ môi trường, còn có các mục tiêu chung khác cần đạt được và từ đó doanh nghiệp tự nguyện tham gia dù không có trong danh sách doanh nghiệp trọng điểm (tức là chưa bắt buộc phải kiểm toán năng lượng).

d/ Chất, số lượng Đội ngũ chuyên gia tư vấn cũng là một rào cản trong sự phát triển các ESCO. Cho đến nay, số lượng chuyên gia được đào tạo bài bản, có chuyên môn cao không nhiều. Chưa kể, một số doanh nghiệp chỉ có nhu cầu kiểm toán năng lượng để đối phó nên lựa chọn các tư vấn có giá rẻ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn nhiều hạn chế. Để phát triển ESCO theo hướng chuyên nghiệp, đây sẽ là một vấn đề cần được giải quyết trong những năm tới.

Trong lĩnh vực chiếu sáng công cộng

Như trên đã nêu, lợi ích mà công nghệ LED đem lại là giảm 50 – 60% điện năng tiêu thụ trong CSCC. Tiềm năng trong thị trường CSCC là rất lớn do công nghệ đèn LED dùng cho CSCC ở thời điểm này chỉ chiếm khoảng dưới 10%. Sử dụng đèn LED cho CSCC sẽ tiết kiệm được điện năng tiêu thụ, giảm bớt gánh nặng về ngân sách Nhà nước, ngành điện bớt được nỗi lo thiếu điện, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng. … Tuy nhiên, khi đi vào thực hiện các công việc cụ thể của dự án các đô thị sẽ phải mất hàng chục năm để có thể đạt tới mục đích vàgặp phải rất nhiều khó khăn vướng mắc, mà chủ yếu là các lý do sau:

  • Chưa chế chính sách cụ thể cho công việc này để hướng dẫn cho các cơ quan ban ngành ở địa phương cũng như các nhà đầu tư thực hiện;
  • Các nhà đầu tư đưa ra bài toán tài chính chủ yếu dựa trên  các  con số lý thuyết (với hiệu quả tính toán thường cao hơn thực tế) mà không tính toán thực tế việc vận hành hệ thống chiếu sáng ở các địa phương khác nhau;
  • Giá đèn LED đề cập trong các dự án còn cao dẫn đến việc tổng mức đầu tư của dự án lớn;
  • Giá điện cho CSCC thực tế ở Việt Nam còn thấp nên chi phí tiết kiệm hàng năm không nhiều so với tổng mức đầu tư của dự án;
  • Thời gian thu hồi vốn dài.

Ngoài ra, tùy đặc thù từng địa phương nhà đầu tư còn gặp phải nhiều vướng mắc, phát sinh trong quá trình thực hiện. Do vậy, đến thời

điểm hiện nay cũng chưa có dự án ESCO nào cho chiếu sáng công cộng được triển khai thành công ở Việt Nam.

– Phương án  thu hồi vốn chưa đúng với bản chất Với thành phố Hà Nội, cũng đã có rất nhiều nhà đầu tư đặt vấn đề để nghiên cứu, lập dự án ESCO cho toàn bộ hệ thống chiếu sáng của Thành phố và được chính quyền thành phố hết sức hoan nghênh, tạo điều kiện. Tuy nhiên, đến nay các phương án mà nhà đầu tư đưa ra cũng chưa được chấp thuận. Ngoài các lý do nêu trên, một số dự án đang triển khai ở Hà Nội các nhà đầu tư đưa ra các phương án thu hồi vốn chưa đúng với bản chất của dự án ESCO như: Thu hồi vốn trong khoảng thời gian ngắn (3 năm) – thực chất đây là hình thức trả chậm; Thu hồi vốn bằng quỹ đất của Thành phố – thực chất đây là hình thức BT đổi dự án lấy hạ tầng hoặc cũng có nhà đầu tư đề xuất thời gian thu hồi vốn kéo dài hơn 20 năm rất khó để thực hiện

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Để tháo gỡ những khó khăn trên, tạo điều kiện cho mô hình ESCO phát triển, từ thực tế các doanh nghiệp ESCO đã đề xuất một số giải pháp, yêu cầu sau:

Thứ nhất/ Cần hỗ trợ từ Chính phủ và các tổ chức tài chính

Cuối tháng 9/2015, Climate Group, một tổ chức phi chính phủ hoạt động tại nước Anh đã thúc đẩy chiến dịch sử dụng đèn LED trên toàn cầu. Chiến dịch này, kêu gọi các thành phố trên toàn thế giới chuyển sang sử dụng đèn LED trên các đường phố đến năm 2025. Tổ chức Climate Group cho rằng các rào cản công nghệ đối với việc triển khai hệ thống đèn LED đã được khắc phục.

Tuy nhiên, tổ chức này cũng khuyến nghị các thành phố cần hỗ trợ từ Chính phủ và các tổ chức tài chính nếu như có dự định thực hiện việc chuyển đổi sử dụng đèn LED. Do cơ sở hạ tầng, hỗ trợ tài chính và hoạt động chính trị tại các thành phố khác nhau, do đó mỗi thành phố cần phát triển kế hoạch chuyển đổi sử dụng đèn LED tùy theo điều kiện của từng thành phố.

Thứ hai/ Lựa chọn đơn vị thứ 3 để hỗ trợ các ESCO

Theo ông Nguyễn Dương Tuấn – Tổng Giám đốc Công ty CP Đầu tư và phát triển năng lượng mặt trời Bách khoa – SolarBK, muốn làm ESCO thì phải quyết tâm, nhưng cũng phải có năng lực. Nhà tư vấn phải sát cánh cùng khách hàng, cùng chấm thầu, cùng ký cam kết tiết kiệm với khách hàng. Bên cạnh đó, phải liên tục cập nhật các giải pháp mới của nước ngoài để tư vấn cho khách hàng.

Vì vậy, mô hình lựa chọn đơn vị thứ 3 để hỗ trợ các ESCO như ký qua EVN, qua ngân hàng. Có những đơn vị này bảo lãnh, doanh nghiệp ESCO sẽ yên tâm hơn, theo đó, Công ty ký với EVN để EVN tìm khách hàng, Công ty đến tư vấn, và cùng nhau chia sẻ lợi nhuận.

Một doanh nghiệp bước chân vào ESCO nếu thấy đảm bảo lợi nhuận thì bước vào, còn nếu tiếp tục đợi cơ chế thì không làm được. Do đó, ESCO chấp nhận cuộc chơi, tự đầu tư, không chờ nhà nước. Chỉ khi mình tự bỏ tiền đầu tư, thì bước khảo sát ban đầu sẽ rất kỹ, nhưng rủi ro là khi khảo sát đang là mùa đơn hàng, tức là không đúng năng lực của nhà sản xuất. Do vậy, ngay từ đầu doanh nghiệp ESCO phải cởi mở, đặt vấn đề rõ ràng với nhau, nếu khảo sát số liệu thực thì mới có kết quả tiết kiệm thực sự. Khi doanh nghiệp ESCO cam kết đảm bảo hiệu quả đầu tư, doanh nghiệp đối tác họ nhìn thấy lợi nhuận thì kiểu gì người ta cũng làm và không lo thiếu thị trường.

Một điều quan trọng nữa là giải pháp phải luôn luôn cải tiến, doanh nghiệp nào có nghiên cứu phát triển thì mới bền vững được. Do vậy, hàng năm SolarBK đã đổ rất nhiều tiền vào nghiên cứu phát triển, nhằm luôn đưa đến những giải pháp tiên tiến, hiệu quả nhất cho khách hàng, ông Tuấn nhấn mạnh.

CẦN THỰC HIỆN NHIỀU BIỆN PHÁP ĐỒNG BỘ ESCO CSCC

Ở Việt Nam đang tích cực triển khai các dự án thay đèn LED bằng cách kêu gọi đầu tư xã hội hóa theo mô hình ESCO, đó là việc các công ty đầu tư thay thế hệ thống CSCC bằng LED sẽ đề xuất các giải pháp kỹ thuật, cam kết hiệu quả tiết kiệm năng lượng với chính quyền. Nhà đầu tư sẽ thu hồi vốn và lợi nhuận dựa trên việc sẽ chia sẻ khoản lợi nhuận từ việc tiết kiệm điện mà dự án mang lại trong khoảng thời gian nhất định với chính quyền. Có thể nói, đây là một giải pháp tốt để các đô thị ở Việt Nam có thể tiếp cận được với hệ thống chiếu sáng tiết kiệm năng lượng với đèn LED. Gần đây, các nhà đầu tư đã mạnh dạn đưa ra các đề án để thực hiện việc này và đã được chính quyền của rất nhiều đô thị đồng tình, ủng hộ về mặt chủ trương.

Thời gian vừa qua, Công ty Chiếu sáng và thiết bị đô thị (HAPULICO) với trách nhiệm là đơn vị chuyên ngành cung cấp dịch vụ công ích quản lý chiếu sáng của Thành phố Hà Nội, Công ty đưa ra giải pháp đầu tư thu hồi vốn bằng tiền điện tiết kiệm được thực tế sau từng năm trên cơ sở đối chiếu số liệu (hóa đơn tiền điện hàng năm) có sự phê duyệt của các Sở ban ngành của Thành phố Hà Nội.

Quá trình thực hiện đề án sẽ là căn cứ thực tế để xây dựng và ban hành cơ chế huy động các nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trong nước, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nước ngoài cho phát triển chiếu sáng đô thị. Cơ chế, chính sách về đầu tư, tài chính liên quan đến ưu đãi đầu tư, thuế, tín dụng, giá cả nhằm khuyến khích các tổ chức cá nhân trong nước và nước ngoài phối hợp với đơn vị quản lý vận hành của Thành phố tham gia đầu tư xây dựng hệ thống chiếu sáng công cộng đô thị, chiếu sáng ngõ xóm trên địa bàn Thành phố.

Để các dự án ESCO có thể thực hiện hiệu quả ở các dô thị Việt Nam, cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi, hấp dẫn các nhà  đầu  tư  tham  gia  vào  lĩnh vực này và để làm cơ sở pháp lý cho chính quyền đô thị

  • Chính phủ và các bộ ngành, địa phương cần phải có cơ chế, chính sách cụ thể và phù hợp để khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư thực hiện dự án;
  • Giai đoạn đầu cần thực hiện thí điểm và có các báo cáo đánh giá, rút kinh nghiệm trước khi triển khai dự án tổng thể có quy mô lớn;
  • Lựa chọn hoặc chuẩn hóa chủng loại đèn LED để thuận tiện trong quá trình lắp đặt cũng như quá trình vận hành và bảo dưỡng sau này (nên lựạ chọn các loại đèn LED dạng Modul). Đèn LED được lựa chọn phải đảm bảo kỹ thuật, đầy đủ các tính năng và các điều kiện an toàn trong quá trình sử dụng;
  • Các nhà đầu tư khi thực hiện dự án ở các địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ với đơn vị quản lý vận hành tại địa phương đó để đưa ra các số liệu, đề xuất kỹ thuật, tài chính hợp lý và hiệu quả cho dự án. Như vậy có thể thấy việc sử dụng đèn LED  trong  chiếu  sáng  công cộng  (CSCC)  là  một  xu  hướng  tất yếu mà Việt Nam cần nghiên cứu, triển khai nghiêm túc bằng việc đưa ra các chủ trương, cơ chế chính sách phù hợp với điều kiện của các đô thị ở Việt Hiện nay, một số đô thị ở Việt Nam trong đó dẫn đầu là thành phố Hà Nội đang triển khai các dự án cải tạo, xây mới, dần thay thế các loại đèn truyền thống.

—————————

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Chiến lược truyền thông về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2021- 2030 (Bộ Công Thương);

Tài liệu Hội thảo ‘ESCO, mô hình kinh doanh trong tương lai của Việt Nam – Bài học rút ra từ hoạt động, mô hình ESCO quốc tế và quốc gia’ tại TPHCM ngày 22/10;

Dự án “Phát triển và thúc đẩy công nghệ LED cho chiếu sáng chung ở Việt Nam” (gọi tắt là Dự án LED)

Lê Mạnh Phương (Theo TC AS&CS số in tháng 03/2022)

Bài viết liên quan

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM NHIỀU NHẤT