Chưa bao giờ lĩnh vực đầu tư, phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam lại thu hút sự quan tâm của các tập đoàn quốc tế với giá trị hàng trăm tỷ USD, với tỷ lệ nội địa hóa tới trên 50% còn tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực này. Các tập đoàn lớn khẳng định sẽ đầu tư vào điện gió ngoài khơi của Việt Nam nếu những thắt nút về cơ chế, chính sách và đặc biệt là giá được tháo gỡ. Nhiều chuyên gia tư vấn quốc tế cũng khuyến nghị Việt Nam nên tăng công suất điện gió ngoài khơi lên 10GW đến giai đoạn 2030 nhằm tận dụng những tiềm năng sẵn có.

Tiềm năng lớn
Qua một số nghiên cứu, Việt Nam có tiềm năng lớn về điện gió nói chung và điện gió ngoài khơi nói riêng. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB), điện gió ngoài khơi của Việt Nam có tiềm năng kỹ thuật khoảng 475 GW hay theo báo cáo của Cơ quan năng lượng Đan Mạch, con số này đạt khoảng 162 GW. Tính toán của Nhóm ngân hàng thế giới cũng cho thấy, nếu Việt Nam phát triển điện gió ngoài khơi với tổng quy mô công suất năm 2030 là 10 GW, 2035 là 25 GW, năm 2040 là 40 GW và năm 2050 là 70 GW – tương ứng với tỷ lệ điện năng cung cấp là 5%, 12%, 17% và 27%, Việt Nam có thể đạt được một số kết quả là lũy kế đến năm 2035 bổ sung 50 tỷ USD nền kinh tế (bao gồm cả xuất khẩu), tạo mới 700.000 việc làm năm, thu hút được 500 triệu USD vốn đầu tư, tránh phát thải hơn 217 triệu tấn CO2, tỷ lệ nội địa hóa 60% và yếu tố rất quan trọng chi phí điện quy dẫn (LCOE) là 83 USD/mWh vào năm 2030 và 62 USD/mWh vào năm 2035, khi sản xuất được 203 TWh.
Tuy nhiên, nhóm ngân hàng thế giới cũng cho rằng, để thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư, tổ chức tài chính và nhà sản xuất trên thế giới phát triển điện gió ngoài khơi của Việt Nam thì quy mô của thị trường với các mục tiêu phải đủ lớn, lộ trình rõ ràng, chính sách phù hợp.
Vừa qua, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) vừa kiến nghị lên Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành đề xuất hàng loạt giải pháp nhằm bảo đảm phát triển bền vững cho ngành điện Việt Nam. Một trong những đề xuất đáng chú ý của VEA là cần tăng mức công suất phát triển điện gió ngoài khơi tới năm 2030 lên khoảng 7 lần (lên 15.000 – 20.000 MW) so mức 2.000-3.000 MW (tương đương 2-3 GW) trong dự thảo Quy hoạch điện VIII.
Thực tế cho thấy, hàng loạt nhà đầu tư nước ngoài đang có những bước đi đầu tiên trong việc triển khai hàng loạt dự án vốn đầu tư hàng tỷ, thậm chí hàng chục tỷ USD để phát triển điện gió ngoài khơi ở Việt Nam.
Tính từ đầu năm 2020 đến nay đã có trên 18 dự án điện gió được đưa vào hoạt động tại Việt Nam. Trong số này, phải kể đến dự án điện gió ngoài khơi Thăng Long Wind, quy mô 3,4 GW, tổng mức đầu tư lên đến 11,9 tỷ USD (tương đương khoảng 274.000 tỷ đồng). Đại diện Enterprize Energy cho biết, hiện đơn vị đã ký hợp đồng và biên bản thỏa thuận với một số đơn vị thuộc tập đoàn dầu khí PVN để khảo sát biển, gia công chế tạo chân đế, dịch vụ cảng bãi… Enterprize Energy đã đề xuất phương án tích trữ điện cho dự án từ công nghệ hóa lỏng khí thiên nhiên (LAES) hợp tác với công ty Highview Power (Anh) và phát triển công nghệ điện phân nước biển sử dụng điện từ dự án Thăng Long Wind sản xuất ra khi Hydro và Amonia hợp tác với Công ty Tractebel Overdick (CHLB Đức). Tháng 7 tới, dự án này sẽ hoàn tất việc lắp đặt phao nổi để tiến hành thu thập số liệu hải dương học (sóng, gió, dòng chảy…) tại khu vực khảo sát.
Có quy mô lớn nhất tính đến thời điểm này tại Việt Nam phải kể đến là dự án điện gió ngoài khơi La Gàn thuộc liên doanh giữa Công ty cổ phần năng Năng lượng dầu khí châu Á (Asiapetro), Novasia Energy và Tập đoàn Copenhagen Infrastructure Partners (CIP, Đan Mạch), công suất 3,5 GW, vốn đầu tư khoảng 10,5 tỷ USD (tương đương 242.000 tỷ đồng). Theo đánh giá, dự án La Gàn với công suất 3.5W có thể đóng góp hơn 4,4 tỷ đô la cho nền kinh tế Việt Nam.
Đại gia năng lượng Đan Mạch, Tập đoàn Orsted cách đây hơn một tháng cũng cho biết sẽ chọn Việt Nam để đầu tư điện gió ngoài khơi, sau loạt dự án thành công tại châu Á.
Còn tại Bà Rịa Vũng Tàu, nhà đầu tư trong nước là HBRE Group và đối tác Pháp đã rót một tỷ USD (khoảng 23.000 tỷ đồng) vào dự án điện gió ngoài khơi với công suất 500 MW…
Cần chính sách phát triển ổn định và phù hợp xu hướng mới.

Tại cuộc họp trực tuyến của Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC) cách đây ít ngày, đại diện nhiều tập đoàn quốc tế đã có những khuyến nghị để phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam, các cơ quan quản lý cần sớm đưa ra cơ chế, chính sách, thủ tục lựa chọn dự án, nhà đầu tư, các vấn đề pháp lý cho phép triển khai một số dự án đủ lớn theo giai đoạn để khởi động cho lĩnh vực này, với cơ chế khuyến khích từ giá FIT để nhà đầu tư yên tâm rót vốn. Sau khi thị trường phát triển ở quy mô nhất định, Chính phủ đánh giá chính sách và có thể chuyển tiếp sang cơ chế giá mới khi phù hợp.
Bà Liming Quiao, Giám đốc khu vực châu Á của GWEC cho hay, trong gần 10 năm qua, giá sản xuất điện từ nguồn điện gió ngoài khơi đã giảm tới 70% và dự kiến tiếp tục giảm trong thời gian tới nhờ sự cải tiến công nghệ, nâng cao hiệu suất.
Theo bà Liming Quiao, sản lượng dự kiến cho điện gió ngoài khơi ở Tổng sơ đồ điện VIII(*) có thể cao hơn, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt mục tiêu 10GW trước năm 2030, song cần có cơ chế tương ứng.
“Chúng tôi ủng hộ Nhà nước thực hiện cơ chế giá theo hướng đấu thầu, nhưng cần có giai đoạn chuyển tiếp trên cơ sở thực hiện cơ chế hỗ trợ. Ví dụ như ban đầu thực hiện theo giá cố định (giá FIT) cho khoảng 4-5GW đầu tiên”, bà Liming chia sẻ và cho rằng, các các nhà đầu tư điện gió ủng hộ cơ chế giá đấu thầu nhưng cần có giai đoạn chuyển tiếp trên cơ sở thực hiện giá FIT. Chẳng hạn, nên kéo dài áp dụng giá FIT cho 4-5 GW đầu tiên.
Tại Việt Nam, theo Dự thảo quy hoạch điện VIII, lần đầu tiên, điện gió ngoài khơi đã được định nghĩa là các dự án điện gió tại khu vực có độ sâu đáy biển từ 20 m trở lên. Tỷ trọng năng lượng tái tạo chiếm đến gần 30% tổng nguồn điện đến năm 2030, tuy nhiên, đối với điện gió ngoài khơi theo kịch bản cơ sở thì đến năm 2030 công suất lắp đặt chỉ chiếm tỷ lệ 1,45% và đối với kịch bản cao là 2% (tương ứng 3 GW).
Ông Sebastian Hald Buhl, Giám đốc Orsted tại Việt Nam cũng cho rằng, để phát triển mạnh điện gió ngoài khơi tại Việt Nam, không phải cứ thực hiện cơ chế đấu thầu ngay là có mức giá thấp hơn giá FIT (cơ chế khuyến khích thông qua giá mua điện cố định 20 năm kể từ ngày vận hành). Nếu không có giai đoạn chuyển tiếp từ giá FIT chuyển sang cơ chế đấu thầu, giá điện có thể tăng cao hơn.
Về việc các dự án điện gió sẽ chuyển sang cơ chế đấu thầu nếu không kịp thời hạn ngày 1/11, bà Maya Malik, Giám đốc cấp cao COP, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Phát triển dự án điện gió La Gan cho rằng, nếu triển khai ngay cơ chế đấu thầu, cần phải đảm bảo có mức giá thấp. Nếu làm đấu thầu, nhà đầu tư phải đảm bảo giá thấp trong thời gian dài và không để xảy ra sai lầm.
“Hiện ở Việt Nam không có chuỗi cung ứng, chính sách không rõ ràng, hợp đồng mua bán điện muốn dùng để vay vốn rất khó nên chúng tôi không thể tính toán tài chính cụ thể cho dự án. Nếu giá không cao sẽ khó thực hiện dự án. Vì vậy chúng tôi ủng hộ cần có giai đoạn chuyển đổi từ từ để hướng tới đấu thầu chứ không phải thực hiện đấu thầu ngay”, bà Maya nói.
Tuy nhiên, theo tính toán của các cơ quan chức năng, đến năm 2030, nhu cầu tổng công suất điện lắp đặt là gần 140 GW (tăng gần gấp đôi so với cuối 2020), năm 2045 là gần 280 GW (tăng gần gấp bốn lần so với năm 2020), nhu cầu vốn đầu tư cho mỗi năm từ nay đến năm 2045 là gần 13 tỷ USD. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, trong số 130 dự án điện gió đã ký hợp đồng mua bán điện với tập đoàn với tổng công suất hơn 7.400MW, số dự án đã đưa vào vận hành thương mại là 12 dự án với tổng công suất là 581,93 MW.
Trong năm nay, sẽ có 105 dự án vận hành thương mại trước ngày 1/11/2021 để kịp hưởng giá bán điện ưu đãi 8,5 cent/kWh (khoảng 1.927 đồng) với điện gió trên đất liền và 9,8 cent/kWh (khoảng 2.223 đồng) với điện gió ngoài khơi theo quyết định 39. Tuy nhiên, dự kiến có 13 dự án sẽ không kịp vận hành trước ngày 1/11 năm nay để được hưởng cơ chế ưu đãi.
Trong số đó, Cà Mau có 4 dự án, Quảng Trị có 3 dự án, Bến Tre có 2 dự án và các tỉnh Bạc Liêu, Bình Thuận, Sóc Trăng, Trà Vinh có 1 dự án. Tuy vậy, EVN cho hay trong tổng công suất đã phê duyệt quy hoạch khoảng 12.000MW, vẫn còn khoảng 4.600MW chưa đàm phán ký kết hợp đồng mua bán điện.
EVN cảnh báo, các dự án dự kiến vận hành sau ngày 1/11 có thể gặp rủi ro về quá tải và thừa nguồn, nếu không có giải pháp đột phá và bền vững thì việc phát triển điện lực sẽ làm ảnh hưởng tới các mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
Quang Hùng (T/h)