Có 47 người dân, cán bộ hưu trí và nhà sư vừa ký đơn kiến nghị “giải oan cho ông Huỳnh Hiếu Bi, nguyên Bí thư Huyện ủy Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh” gửi nhiều cơ quan từ địa phương đến Trung ương. Đây là đơn thứ hai, sau đơn thứ nhất gửi ngày 27/6/2009, khi ông Bi mới bị kết án.
Lá đơn mở đầu khá thống thiết, cho biết, một số người ký đơn lần trước “nay đã qua đời nhưng họ vẫn không yên mồ, một vụ án mà ông Huỳnh Hiếu Bi phải chịu án oan, tù oan”. Đây là vụ án không phức tạp nhưng bị các cơ quan tố tụng làm cho phức tạp, rõ dấu hiệu oan sai.

Nguyên nhân khởi tố vòng vo
Ký đơn có nhiều người từng là cán bộ chủ chốt huyện Cầu Ngang như Bí thư, Trưởng ban Tuyên giáo, Trưởng ban Dân vận Huyện ủy; Chủ tịch UBMTTQ, Chủ tịch UBND huyện; Viện trưởng VKSND, Phó công an huyện. Họ cho biết, ông Bi là con của BMVNAH, giòng tộc có hơn 20 liệt sỹ. Bản thân ông Bi tham gia cách mạng từ năm 1969, vào Đảng năm 1973 khi vừa 18 tuổi, trải qua nhiều chức vụ từ cơ sở cho đến năm 2005, được bầu làm Bí thư Huyện ủy Cầu Ngang quê nhà.
Tính ông ngay thẳng và vì thế bị một số người không ưa. Thời gian ông được bầu làm Bí thư Huyện ủy, xuất hiện đơn nặc danh rồi có danh, tố cáo ông tham ô tiền tỷ lúc làm Chủ tịch UBND huyện (1999-2005). Những người đứng đơn là bà con, thông gia với GĐ Công an tỉnh Trà Vinh lúc đó, ông Lê Thanh Đấu.
Tỉnh lập đoàn thanh tra. Trước khi thanh tra làm việc thì đêm 26 rạng 27/3/2006, có kẻ đột nhập trụ sở UBND huyện lục soát, đẩy lên dư luận ông Bi tẩu tán tài liệu. Một ban chuyên án được thành lập do GĐ Công an tỉnh Lê Thanh Đấu làm Trưởng ban. Ít lâu sau, chuyên án dò ra manh mối kẻ gian nhưng không bắt.
Ông Bi làm đơn tố cáo GĐ Công an tỉnh Lê Thanh Đấu bao che tội phạm. Thế rồi khi Thanh tra tỉnh kết luận, ông Bi có sai sót trong điều hành sử dụng ngân sách nhưng không tham ô, thì ông lại bị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh khởi tố, bắt tạm giam vào ngày 15/1/2008. Lúc đó, dư luận địa phương khá bất ngờ, vì thấy “không bắt kẻ trộm lại bắt chủ nhà”.
Kết luận điều tra cho rằng, ông cố ý làm trái gây thiệt hại 800 triệu đồng, tham ô hơn 80 triệu. Những con số này sai sự thật như sau này, cáo trạng và các lần xử án đưa ra con số thấp hơn nhiều mà vẫn bị tài liệu chứng cứ phản bác.

Xét xử có nhiều tranh cãi
Cáo trạng của Viện KSND tỉnh Trà Vinh ngày 28/8/2008 quy kết ông Bi cố ý làm trái gây thiệt hại 112.302.000 đồng, tham ô 51.897.316 đồng. Trong đó, có 8 triệu đồng mua điện thoại tặng một cán bộ ở tỉnh.
Phiên tòa sơ thẩm của TAND tỉnh Trà Vinh xét xử từ ngày 24 đến 26/12/2008, kết luận ông Bi cố ý làm trái 155.724.796 đồng, tham ô 8 triệu đồng, phạt ông 3 năm tù, cho hưởng án treo.
Đến phiên tòa phúc thẩm do TANDTC tại TPHCM xét xử ngày 27/5/2009, ông Bi cung cấp được nhiều tài liệu chứng minh ông chi tiền đúng, không cố ý làm trái. Các khoản chi chủ yếu cho gia đình chính sách, theo quyết định của UBND và HĐND tỉnh, nguồn chi tại Phòng LĐTB&XH huyện. Việc mua điện thoại tặng cán bộ tỉnh cũng có chủ trương của tập thể UBND huyện và chỉ quyết toán 5,5 triệu đồng, không phải 8 triệu. Ông Bi giải thích, trước đó, ông không có những tài liệu này vì em ruột của GĐ Công an tỉnh là ông Lê Thành Thái đang làm Chủ tịch UBND huyện, không cho cung cấp tài liệu. Khi ông Thái chuyển đi và người khác về làm Chủ tịch UBND huyện Cầu Ngang, các ngành mới được cung cấp tài liệu liên quan vụ án.
Nhưng tòa phúc thẩm không chấp nhận chứng cứ ông Bi cung cấp. Bản án phúc thẩm viết: “Xét thấy những tài liệu nêu trên, trong đó có xác nhận của Phòng LĐTB&XH huyện Cầu Ngang chỉ nhằm mục đích cho bị cáo đối phó với pháp luật nhằm trốn tránh trách nhiệm, bởi vì nếu chi số tiền đó là đúng nguyên tắc thì phải có chứng từ gốc ngay từ khi quyết định chi và vẫn do Phòng LĐTB&XH huyện thực hiện thì tại sao trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm Phòng LĐTB&XH không xác nhận điều này. Vì vậy những tài liệu này không có giá trị chứng minh”.
Viện KSNDTC có kháng nghị giám đốc thẩm vào ngày 6/5/2010 và kháng nghị bổ sung ngày 23/3/2011, nhấn mạnh “nhận định trên của Tòa cấp phúc thẩm là không chính xác”. Bởi vì “trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự là thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng chứ không phải trách nhiệm của bị can, bị cáo. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm đã vi phạm Điều 246 Bộ luật tố tụng hình sự về việc “bổ sung, xem xét chứng cứ tại Tòa cấp phúc thẩm”. Nên đề nghị hủy cả bản án phúc thẩm và sơ thẩm “do việc điều tra, truy tố, xét xử phiến diện, không đầy đủ và có vi phạm tố tụng hình sự”. Đáng tiếc, kháng nghị không được giám đốc thẩm chấp nhận.
Nhiều đề nghị giải oan
Mới đây, ngày 29/5/2017, Văn phòng Chủ tịch nước có công văn thông báo ý kiến của Chủ tịch nước đề nghị Chánh án TANDTC và Viện trưởng Viện KSNDTC xem xét đơn kêu oan của ông Bi. Hai năm trước, ngày 16/6/2015, Văn phòng Chủ tịch nước đã có thông báo tương tự. Với chức năng giám sát, Ủy ban Trung ương MTTQVN vào ngày 10/8/2009 cũng có công văn gửi Chánh án TANDTC và Viện trưởng Viện KSNDTC đề nghị xem xét để “bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của công dân”.
Vụ án này còn có 3 người khác là Chánh văn phòng, Phó chánh văn phòng, Kế toán văn phòng UBND huyện Cầu Ngang bị phạt tù. Nếu ông Bi bị oan thì họ cũng bị oan. Đơn của tập thể cán bộ hưu trí, người dân và nhà sư kiến nghị giải oan cho ông Bi cũng là giải oan cho 3 người còn lại.
Ông Bi sinh năm 1955, thời gian công tác từ chiến tranh đến khi bị khởi tố là 37 năm, nhưng nay không được hưởng chế độ chính sách nào cả, phải lao động kiếm sống. Bệnh ông lại nhiều: tiểu đường, hẹp đa mạch vành tim, cao huyết áp, thoát vị đĩa đệm nhiều đốt xương sống, lòa một mắt; giám định mất tới 94% sức khỏe. Ông nói: “Trong chiến tranh giặc không bắn được tôi, ngờ đâu lại trúng đạn của đồng chí trong thời bình, giờ chỉ tha thiết được giải oan để không ôm hận xuống mồ”.
SÁU NGHỆ