38 C
Hanoi
Thứ Hai, 2 Tháng 6, 2025

Giảm phát thải khí nhà kính trong trồng lúa nước

Khí nhà kính chính trong bầu khí quyển trái đất gồm: carbon dioxide (CO2), methan (CH4), dinitơ monoxide (N2O), ozon (O3) và các khí CFC. Phát thải trong trồng lúa nước chủ yếu là khí CH4, do các chất hữu cơ bị phân hủy trong điều kiện yếm khí khi ruộng lúa bị ngập nước. Vùng lúa quốc gia là ĐBSCL đang có nhiều nỗ lực để giảm khí phát thải.

Lúa nước chiếm 48% khí nhà kính trong nông nghiệp

Sản xuất lúa gạo hiện chiếm 48% lượng phát thải khí nhà kính, hơn 75% lượng khí thải CH4 của ngành nông nghiệp. Theo báo cáo “Hướng tới chuyển đổi nông nghiệp xanh ở Việt Nam: Chuyển sang mô hình lúa gạo carbon thấp” của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, trồng lúa phát thải mỗi năm gần 50 triệu tấn khí CO2 quy đổi, trung bình sản xuất 0,9 tấn gạo sinh ra một tấn CO2 quy đổi. Canh tác liên tục, sử dụng giống, phân bón, tưới tiêu quá độ là một trong những nguyên nhân khiến sản sinh khí nhà kính lớn.

Nông dân với lúa Ảnh: NGỌC NAM

Theo các nghiên cứu, khí CH4 sinh ra do quá trình phân giải yếm khí carbon trong đất ở điều kiện hệ sinh thái rễ lúa ngập nước. Sau đó, phát tán vào môi trường qua ba con đường: Qua các mô khí bên trong thân cây lúa rồi phát tán qua lóng và phiến lá lúa (chiếm 90% tổng lượng CH4 phát thải từ ruộng lúa); qua tầng nước mặt ruộng, bay vào không khí theo cơ chế khuếch tán gradient nồng độ (chiếm 9%); qua sủi bọt khí trong nước mặt ruộng lúa (chiếm 1%). Chưa kể rơm, rạ vùi lấp vào ruộng nước cũng sinh khí phát thải lớn.

Chuyển sang nền sản xuất lúa gạo carbon thấp sẽ giúp nông sản Việt Nam duy trì sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, khi người bán lẻ và tiêu dùng ở các nước nhập khẩu thực phẩm chính, đều yêu cầu tiêu chuẩn bền vững cao đối với các mặt hàng nông sản nhập khẩu. Nhưng khó khăn lớn là thiếu cơ sở hạ tầng, giải pháp kỹ thuật, vốn đầu tư cho các loại sản phẩm mới. Bởi chi phí thực hiện ban đầu theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới cho biết Việt Nam sẽ cần đầu tư 515 USD/ha để đáp ứng mục tiêu giảm phát thải trung bình. Nên giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất lúa là yêu cầu cấp thiết.

Áp dụng kỹ thuật “1 phải 5 giảm” tăng năng suất và giảm khí phát thải Ảnh: NGỌC NAM

Vùng ĐBSCL chiếm hơn 50% diện tích gieo trồng và sản lượng lúa của cả nước. Hiện nay, các kỹ thuật canh tác lúa có thể làm tăng năng suất lúa, gia tăng sản lượng nhưng cũng có thể tác động ngược lại là làm tăng lượng phát thải khí nhà kính.

Để giảm phát thải khí nhà kính trong trồng lúa nước cần thực hiện đồng bộ các biện pháp như: áp dụng công nghệ “nông lộ phơi”, tức là tưới nước chủ động khô và ngập luân phiên một cách thích hợp, thay vì để ruộng lúa ngập nước suốt mùa vụ, từ đó giúp giảm phát thải khí CH4. Tuy nhiên, giải pháp này cần xây dựng hệ thống thủy lợi chủ động để áp dụng công nghệ phù hợp và cũng đòi hỏi chí phí đầu tư tương đối lớn. Nếu không có các nguồn lực hỗ trợ, nhiều nông dân chưa thể làm. Đồng thời, áp dụng biện pháp này cần diện tích canh tác lúa tập trung nên chỉ một số địa bàn cụ thể mới có thể áp dụng.

Giải pháp tiếp theo cũng góp phần giảm phát thải khí nhà kính là chuyển đất lúa kém hiệu quả sang các cây trồng cạn khác. Do lượng phát thải trong cây trồng cạn thấp nên chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang canh tác các loại cây trồng cạn sẽ giúp giảm phát thải khí nhà kính. Ngoài ra, các địa phương cần chuyển đổi đất sản xuất 2-3 vụ lúa sang 1 vụ lúa, 1 vụ màu. Để đạt hiệu quả bền vững, đòi hỏi mỗi địa phương có quy hoạch cụ thể liên quan đến sản xuất, thị trường sản phẩm cũng như chi phí đầu tư cải tạo hệ thống thủy lợi, cơ sở chế biến.

Đề án một triệu héc ta chuyên canh lúa chất lượng cao

Nhiều năm trước, ĐBSCL đã manh nha canh tác lúa hữu cơ, giảm phân hóa học, giảm thuốc bảo vệ thực vật và phát huy hiệu quả kinh tế rõ rệt, được ghi nhận giảm phát thải khí nhà kính. Sử dụng phân hữu cơ và thuốc thảo dược sẽ giúp nông dân giảm chi phí khoảng 2,2 triệu đồng/ha nhờ giảm được 4 lần phun thuốc. Năng suất ước đạt từ bằng đến cao hơn so với các cánh đồng vẫn phun thuốc, lúa thu hoạch được doanh nghiệp bao tiêu.

Thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp trên cánh đồng khô Ảnh: NGỌC NAM

Năm 2017, Dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (Dự án VnSAT) được triển khai tại ĐBSCL và Tây Nguyên có 13 tỉnh, thành tham gia thực hiện với 2 ngành hàng chủ lực là cà phê và lúa gạo. Tổng nguồn vốn của Dự án là 288,222 triệu USD, tương đương 6.629 tỷ đồng. Trong đó, vốn ODA vay của Ngân hàng Thế giới 221,822 triệu USD, tương đương 5.102 tỷ đồng, vốn đối ứng Chính phủ Việt Nam 31,4 triệu USD, tương đương 723 tỷ đồng. Còn lại là vốn của nông dân, các hợp tác xã tham gia dự án khoảng 35 triệu USD, tương đương 805 tỷ đồng.

Dự án VnSAT triển khai với 4 hợp phần: Tăng cường năng lực thể chế phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp; Phát triển lúa gạo bền vững; Phát triển cà phê bền vững và Công tác Quản lý Dự án.

Hợp phần phát triển lúa gạo bền vững triển khai ở ĐBSCL có 8 địa phương tham gia: Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Tiền Giang và Long An. Nông dân tham gia được tập huấn kỹ thuật canh tác “3 giảm, 3 tăng” và “1 phải, 5 giảm” đạt 175.442 ha. Ước tính phần diện tích này giảm được 1,5 triệu tấn carbon, đồng thời giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận cho người dân.

Từ kết quả đó, Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL” đang được Bộ NN&PTNT triển khai. Dự tính, 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao có thể giảm 10 triệu tấn carbon, bán được khoảng 100 triệu USD. Đây là con số nhiều ý nghĩa với ngành lúa gạo, có khả năng thay đổi diện mạo toàn ngành trong tương lai, cũng là diện tích trồng lúa giảm phát thải lớn đầu tiên trên thế giới. Nhiều địa phương đã đăng ký tham gia.

Cơ giới hóa thu gom rơm, rạ ở đồng ruộng tỉnh Hậu Giang Ảnh: NGỌC NAM

Lớn nhất là tỉnh Kiên Giang đăng ký với Bộ NN&PTNT đến năm 2030 đạt 200.000 ha chuyên canh lúa. Cụ thể, bắt đầu từ năm 2023-2024 triển khai thực hiện khoảng 60.000 ha trên diện tích vùng lúa thuộc Dự án VnSAT. Mở rộng lên 100.000 ha vào năm 2025 và 200.000 ha đến năm 2030. Với diện tích 60.000 ha, có 104 hợp tác xã tham gia, liên kết sản xuất và tiêu thụ với 3 doanh nghiệp lớn là Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An, Tập đoàn Lộc trời, Tập đoàn Tân Long cùng nhiều doanh nghiệp khác. Hiện việc liên kết đã mở rộng ra 19 doanh nghiệp.

Tiếp theo là tỉnh An Giang đăng ký thực hiện năm 2024 là 30.000 ha và mở rộng lên 200.000 ha đến năm 2030. Hiện có hơn 200 hợp tác xã đang liên kết với Tập Đoàn Lộc Trời, Tập đoàn Tân Long và một số công ty lớn khác trong sản xuất và tiêu thụ lúa, dự kiến đến năm 2025 tăng lên 400 hợp tác xã.

Thành phố Cần Thơ đăng ký tham gia hơn 31.000 ha đến năm 2024 và 50.000 ha vào năm 2030. Diện tích tham gia ở 3 huyện sản xuất lúa trọng điểm là Cờ Đỏ, Thới Lai và Vĩnh Thạnh, cũng là nơi đã tham gia tốt dự án VnSAT.

Tỉnh Sóc Trăng đăng ký năm 2024 có 22.329 ha tham gia, đến năm 2025 tăng lên 77.000 ha và giữ nguyên đến năm 2030. Nếu điều kiện thuận lợi, hạ tầng thủy lợi tốt thì sẽ tăng diện tích. Tỉnh Vĩnh Long không có nhiều diện tích lúa cũng đăng ký tham gia đến năm 2025 là 3.000 ha và đến năm 2030 tăng lên 20.000 ha.

Tổng cộng hiện nay, các địa phương ở ĐBSCL đã đăng ký tham gia đến năm 2025 là 720.000 ha lúa chất lượng cao. Mục tiêu đề án gắn với tăng trưởng xanh, đạt 1 triệu ha vào năm 2030 sẽ có sản lượng khoảng 12,5 triệu tấn lúa. Ứớc tính tổng vốn đầu tư cho đề án là 15.000 tỷ đồng; gồm 3.750 tỷ đồng từ ngân sách, xã hội hóa 10.500 tỷ đồng, vốn hợp pháp khác 750 tỷ đồng.

Mong đợi của đề án là giảm giá thành sản xuất lúa. Cụ thể, giảm lượng giống xuống còn 80kg/ha, giảm phân bón và thuốc trừ sâu 30%, giảm nước tưới 30%, giảm thất thoát sau thu hoạch xuống dưới 8%, giảm phát thải trên 10%. Từ đó, sản lượng gạo xuất khẩu mang thương hiệu Việt Nam tăng hơn 20%, giúp tăng thu nhập cho người dân trồng lúa.

Một số yêu cầu căn bản: Vùng thực hiện đề án phải sử dụng giống xác nhận, có quy trình canh tác bền vững, dựa trên nền tảng của các tiêu chuẩn “3 giảm 3 tăng”, “1 phải 5 giảm”, VietGap, GlobalGap. Nội vùng được đầu tư hệ thống thủy lợi, đê bao, nông dân trong hợp tác xã được vay vốn ưu đãi, doanh nghiệp được tiếp cận các chính sách hỗ trợ.

Sử dụng hiệu quả 47 triệu tấn rơm, rạ

Cục Trồng trọt cho biết, mỗi năm Việt Nam có khoảng 47 triệu tấn rơm, rạ; trong đó, ĐBSCL có 26 – 27 triệu tấn. Hiện mới thu gom sử dụng khoảng 30%, còn 70% theo tập quán được đốt hoặc vùi lấp trên ruộng. Đốt gây ô nhiễm khói bụi, làm mất chất dinh dưỡng và làm biến đổi thành phần cơ giới của đất. Còn vùi lấp vào ruộng ngập nước sẽ làm tăng phát thải khí nhà kính, gây ngộ độc hữu cơ cho vụ lúa sau. Nếu áp dụng cơ giới hóa để thu gom rơm, rạ và có giải pháp xử lý, chế biến thành các sản phẩm hữu ích như trồng nấm rơm, làm thức ăn chăn nuôi, chế biến phân bón hữu cơ sẽ tạo ra giá trị không hề nhỏ,

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao có mục tiêu thay đổi tập quán canh tác, sử dụng tài nguyên hợp lý; trong đó, đặt ra việc cơ giới hóa thu gom xử lý rơm, rạ để tạo ra giá trị mới, nâng cao thu nhập cho nông dân.

SÁU NGHỆ (TC AS&CS số in tháng 7/2023)

Bài viết liên quan

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM NHIỀU NHẤT