Lễ hội Quýt hồng Lai Vung lần thứ 1 năm 2023 ở tỉnh Đồng Tháp vừa diễn có hội thảo “Bảo tồn và phát huy tiềm năng, giá trị quýt hồng”, tập trung bàn giải pháp bảo vệ cây đặc sản quý này, lúc hưng thịnh có 1.200 ha nhưng nay chỉ còn khoảng 200 ha xanh tốt. Như mọi loại cây trồng, quýt hồng phát triển dựa trên hai yếu tố căn bản: Môi trường và giống; cũng là hai yếu tố đang đe dọa sự tồn tại của quýt hồng. Hội thảo đã giới thiệu một số ứng dụng khoa học kỹ thuật để cải thiện hai yếu tố đó, bước đầu cho kết quả khả quan.

Khắc phục bệnh vàng lá, thối rễ, chết xanh
Cây quýt hồng khi trồng lâu năm trên một vùng đất sẽ xuất hiện bệnh vàng lá, thối rễ, chết xanh; thường được gọi là “ung thư” rất khó chữa, phải chặt bỏ cây. Nguyên nhân chủ yếu là đất đã cạn kiệt chất bổ dưỡng cho cây đặc sản; cây yếu bị sâu bệnh tấn công. Muốn chống bệnh triệt để phải bồi bổ đất.
Ông Nguyễn Văn Đầy ở ấp Long Hưng 1, xã Long Hậu (Lai Vung, Đồng Tháp) được Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Đồng Tháp, Phòng NN&PTNT huyện Lai Vung trực tiếp hỗ trợ, bước đầu có kết quả tốt. Ông có 1.300 m2 quýt hồng, trước đây cho thu nhập khá nhưng canh tác theo kinh nghiệm, sử dụng nhiều phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật nên sinh bệnh vàng lá, thối rễ, chết xanh; vườn cây được 6 năm thì bệnh lan tràn khiến 50% có nguy cơ phải đốn bỏ. Kiểm tra cho biết tỷ lệ cây nhiễm Fusarium cấp 4-5 chiếm 95%, còn lại nhiễm Phytophthora cấp 1-3.
Các chuyên gia giúp ông Đầy cải tạo đất và chăm sóc cây đúng kỹ thuật. Cải tạo đất gồm cải thiện đất và quản lý bệnh. Về cải thiện đất, ông Đầy kể: “Xeo đất độ sâu 35 – 40cm ở liếp vào cuối tháng giêng âm lịch hay tháng 2-3 dương lịch để ít làm tổn thương cây. Bón vôi 250-500 g/cây (tùy tuổi cây), 5-10 kg trấu, 2-4 kg tro trấu cho mỗi gốc, Dolomite (Calmag) 200-300 g/gốc (tùy tuổi cây). Bón phân hữu cơ (rơm mục, phân bò, trichoderma) đã ủ hoai 30-50 kg/gốc/năm”.

Còn việc quản lý bệnh, theo ông Đầy: “Bệnh thối rễ do nấm Fusarium solani thì sử dụng chế phẩm sinh học Trico-Thối rễ (của Đại học Cần Thơ) bón 10-20 g/gốc kết hợp bón 5 kg/gốc phân hữu cơ ủ hoai và 5-10 cuộn rơm khô/1.000 m2. Bệnh thối gốc do nấm Phytophthora nicotianae (xì mủ gốc, ngủ ngày, héo xanh) thì sử dụng chế phẩm sinh học Trico-Phytoph (Đại học Cần Thơ) 10-15 g/gốc kết hợp bón 5 kg/gốc phân hữu cơ ủ hoai và phun thêm Trico-Phytoph lên tán, thân cây (2-3 g/lít) và luân phiên với phun vôi (5 g/lít vôi CaO). Đồng thời kết hợp với quét vôi từ gốc lên thân cây khoảng 1-1,5 m (10 g/lít vôi CaO+ adao) hoặc dùng vôi quét tường từ đầu đến cuối mùa mưa (tháng 5-11 dương lịch) cách 2 tháng/lần để ngừa bệnh lây lan. Bệnh do tuyến trùng gây hại thì sử dụng chế phẩm sinh học Trico-Tuyến trùng (Đại học Cần Thơ) 10-20 g/gốc kết hợp bón 5 kg/gốc phân hữu cơ ủ hoai và 5-10 cuộn rơm khô/1.000m2”.
Ông Đầy lưu ý: Xử lý các chế phẩm sinh học Trico 3 tháng/lần (trị bệnh) và 4-6 tháng/lần (phòng bệnh), tốt nhất nên trộn sản phẩm Trico với phân hữu cơ đã hoai, kết hợp với phân hữu cơ chứa Humat. Nếu vườn có cả 2-3 loại bệnh trên thì không nên sử dụng cùng lúc 3 loại sản phẩm mà cách nhau 7-10 ngày. Hạn chế sử dụng thuốc trừ nấm bệnh chung với các sản phẩm Trico, nếu sử dụng nên cách nhau 7- 10 ngày.
Quá trình chăm sóc gồm có bón phân và chăm sóc. Về bón phân, ông Đầy giới thiệu cặn kẽ: “Giai đoạn xử lý ra hoa: từ sau xiết nước, lúc tưới trở lại (tháng 2 âm lịch), bón phân theo tỷ lệ 2 đạm – 3 lân – 2 kali (37 g Ure + 131 g DAP + 67 g Clorua kali/gốc hay 86 g Ure + 375 g Super Lân + 66 g Clorua kali/gốc). Sau 7-10 ngày bón 120-150 g Dolomite (Calmag)/gốc để ổn định pH và cung cấp can xi, ma nhê cho cây.
Các giai đoạn trái non (sau ra hoa đến trái non, nhỏ hơn 5cm), bón 1 lần theo tỷ lệ 3 đạm – 3 lân – 2 kali; sau 7-10 ngày bón 150- 200g Dolomite (Calmag)/gốc. Giai đoạn trái phát triển (từ trái lớn hơn 5 cm đến 2 tháng trước thu hoạch), bón cách 2-2,5 tháng/lần theo tỷ lệ 3,75 đạm – 3 lân – 2 kali; sau 7-10 ngày bón 150- 200g Dolomite (Calmag)/gốc. Giai đoạn trái trưởng thành đến chín (1,5 -2 tháng trước khi hái), bón 1 lần theo tỷ lệ 2 đạm – 2 lân – 3,5 kali. Ông Đầy lưu ý: “Không kết hợp bón vôi và Calmag cùng lúc với phân hóa học có chứa đạm vì can xi sẽ làm thất thoát đạm, cần bón cách nhau tối thiểu 7 ngày”.
Việc chăm sóc: Đặt bẫy màu vàng nghệ nhằm theo dõi mật độ rầy ở các đợt ra đọt non để có biện pháp phòng trị kịp thời. Tỉa cành tạo tán giúp thông thoáng, vệ sinh gần gốc (cách gốc ít nhất 50 cm) để hạn chế bệnh do Phytophthora. Trồng cúc sài đất để xua đuổi côn trùng, tuyến trùng, tạo độ thoáng cho đất và có nguồn ủ phân hữu cơ.
Vườn quýt hồng của ông Đầy năm nay gần như phục hồi hoàn toàn, năng suất cao trở lại. Ông Đầy nhấn mạnh: “Sử dụng phân hữu cơ là căn bản, sử dụng đúng giai đoạn, số lượng sẽ giảm rất nhiều vấn đề, ít sâu bệnh, giảm tỉ lệ cây chết do thối rễ. Từ kinh nghiệm bản thân, tôi đề nghị các cấp chính quyền địa phương, các ngành chuyên môn nghiên cứu đầu tư thêm về qui trình sản xuất quýt hồng theo hướng hữu cơ sinh học, ứng dụng quy trình IPM”.
Nghiên cứu chọn tạo giống
Viện Cây ăn quả Miền Nam thực hiện đề tài “cải thiện phẩm chất trái quýt hồng huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp – giai đoạn 1 từ năm 2015-2020”. Kết quả đã cải thiện giống quýt hồng theo hướng tăng chất lượng trái, đặc biệt là giảm số hạt/trái, tăng độ ngọt, giảm độ chua.
Nghiên cứu bắt đầu từ việc tuyển chọn và công nhận cây đầu dòng có các phẩm chất tốt. Hai cây quýt hồng được tuyển chọn là QHLV-23a và QHLV-23b, có các chỉ tiêu đạt yêu cầu đề ra, qua hội đồng thẩm định đã được Sở NN&PTNT công nhận là 2 cây đầu dòng phục vụ nhân giống. Từ 2 cây này, Viện Cây ăn quả Miền Nam nhân được 6 cây sạch bệnh, chuyển cho Trung tâm Ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao tỉnh Đồng Tháp xây dựng vườn cây đầu dòng phục vụ nhân giống cây sạch bệnh cho sản xuất.
Viện Cây ăn quả Miền Nam thực hiện cải thiện giống quýt hồng bằng chiếu tia gamma trên mầm. Công nghệ hạt nhân vốn đã được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu chọn tạo giống cây trồng bởi cải thiện được tính đa dạng di truyền, cải thiện tính trạng giống thương phẩm một cách nhanh và hiệu quả. Sau 5 năm trồng các dòng quýt hồng chiếu xạ gây đột biến đã tuyển chọn được 40 dòng quýt hồng chiếu xạ có số hạt/trái thấp, chất lượng trái cao. Trong đó, 15 dòng chiếu xạ có số hạt/trái ≤ 3 hạt; tỉ lệ dịch trái ≥ 30%; chỉ số brix/acid tổng số ≥ 15.
Nghiên cứu còn tạo dòng quýt hồng đa bội bằng colchicine trong in-vitro. Công bố của Viện Cây ăn quả Miền Nam cho biết: Hạt thu từ trái quýt hồng được gieo trong môi trường MS (Murashige và Skoog, 1962) có bổ sung 8 g agar/lít và colchicine. Kết quả cho thấy Colchicine đã gây ảnh hưởng đến tỷ lệ nảy mầm, chiều cao cây, hình thái cây và gây ra biến dị đa bội khi xử lý trên phôi mầm hạt quýt hồng trong in-vitro. Các cây quýt hồng đa bội tạo ra được làm vật liệu cho công tác chọn tạo giống quýt hồng (gốc ghép, hoặc lai tạo cây quýt hồng tam bội).
Kết quả trên mở ra định hướng nghiên cứu và phát triển giống quýt hồng trong các năm tới để cải thiện chất lượng giống mạnh mẽ hơn. Viện Cây ăn quả Miền Nam cho biết: “Từ các kết quả khảo nghiệm chọn ra dòng quýt hồng không/ít hạt chất lượng cao, sinh trưởng mạnh, chống chịu khá tốt với bệnh loét để tự công bố lưu hành giống quýt hồng mới phục vụ khôi phục diện tích trồng quýt hồng bằng giống quýt hồng mới góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho nông dân trồng quýt hồng. Nghiên cứu quy trình canh tác để tăng hiệu quả sản xuất giống quýt hồng mới được tạo ra”.
SÁU NGHỆ (Theo dongthap.gov.vn)