26 C
Hanoi
Thứ Ba, 10 Tháng 6, 2025

Tranh luận dẫn nước từ miền Đông chống hạn mặn ĐBSCL

Trong tình hình hạn mặn gay gắt ở ĐBSCL, hôm 26/3, nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy lợi (nay là Bộ NN&PTNT) GS.TS Vũ Trọng Hồng phát biểu trên báo Đất Việt cho rằng: “Chiến lược ngọt hóa dài hạn cần phải tính đến chuyện chuyển nước từ miền Đông sang miền Tây bằng các đường dẫn nước, đồng thời phải xây dựng các hồ trữ nước ngọt đạt chuẩn”. Lập tức, có nhiều ý kiến tranh luận.

Giữa tháng 3/2020, sông Hậu qua Cần Thơ vẫn ăm ắp nước ngọt

PHẢI CHUYỂN NƯỚC TỪ MIỀN ĐÔNG
GS.TS Vũ Trọng Hồng cho rằng: “Mỗi năm, cả nước cần tới hơn 500 tỷ m3 nước ngọt. Nguồn nước trong nước chỉ đáp ứng được 300 tỷ m3 tính theo lượng mưa và phân bổ trên tất cả các hồ, sông, suối của cả nước. Tuy nhiên, điểm khó khăn của khu vực ĐBSCL là nơi đây không có nhiều hồ chứa để dẫn nước về. Vì thế, chiến lược ngọt hóa dài hạn cần phải tính đến chuyện chuyển nước từ miền Đông sang miền Tây bằng các đường dẫn nước, đồng thời phải xây dựng các hồ trữ nước ngọt đạt chuẩn. Như vậy mới là ngọt hóa đúng nghĩa”.
Theo GS.TS Hồng, chiến lược ngọt hóa đã có từ năm 1996 nhưng chưa được thực hiện do quan điểm cho rằng không cần ngọt hóa, cứ để nông dân làm, lấy nước ngầm lên tưới. Tuy nhiên, do người dân trồng trái vụ, trái loại giống và trái đất nhiều quá: đem na, sầu riêng Thái Lan về trồng trái mùa, lúa đông xuân làm vụ muộn…, lại cứ khoét nước tưới nên cây bị hai tầng: tầng trên không có nước để tưới, tầng dưới thì hút mặn lên. Bởi vậy, cả trăm nghìn héc ta cây ăn trái bị ảnh hưởng không phải hoàn toàn do thiếu nước mà bị mặn hút lên, cái mặn ấy sinh do người dân hút nước nhiều quá làm tầng nước ngọt bị mất đi. Điểm này, theo GS.TS Hồng, có lỗi của cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi, thủy văn không thông báo, tuyên truyền đầy đủ cho người dân.
Mặt khác, theo quy luật sức hút giữa mặt trăng và trái đất, vào những thời kỳ khi mặt trăng gần trái đất, thủy triều sẽ dâng cao hơn, tiến sâu vào đất liền. Chúng ta phải trồng rừng ngập mặn là để cản dòng chảy tiến vào. Tuy nhiên, thời gian qua, rừng ngập mặn bị phá đi khiến nước mặn tiến sâu vào đất liền hơn.
Một điểm khác, theo GS.TS Hồng, đây là sai lầm lớn về chiến lược thủy lợi khi bỏ đi chỗ chứa nước. Trước đây, khi có Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên chứa nước, nó đẩy nước mặn ra nên vào mùa nước mặn, ĐBSCL không gặp vấn đề gì. Trước tình hình hạn mặn nghiêm trọng như hiện nay, GS.TS Vũ Trọng Hồng cho rằng không thể chần chừ chương trình ngọt hóa được nữa. Các nước tính ra mất cả trăm năm mới dẫn được nước, như Trung Quốc dẫn nước từ phía nam lên phía bắc, làm suốt mấy chục năm vẫn chưa xong.
“Hỗ trợ tiền, cứu trợ nước ngọt là không đủ. ĐBSCL có hàng loạt hệ thống thủy lợi lớn nhưng tỉnh nào biết tỉnh ấy, phải nối các kênh tưới nước từ tỉnh nọ sang tỉnh kia. Trong khi chờ đợi chiến lược ngọt hóa lâu dài thì phải nối bằng các công trình tạm, có thể là các đường ốp tôn để đưa nước ngọt tới cho người dân. Muốn vậy, phải có cơ sở dữ liệu tính toán thủy văn, thổ nhưỡng chịu được mặn bao nhiêu, nguồn nước ngọt có bao nhiêu…, từ đó tính toán đường dẫn, nghiên cứu giống cây chịu mặn…Phải có người tiên phong. Mỗi hệ thống phải có một công trình mẫu do một doanh nghiệp làm theo công nghệ 4.0 và có sự hỗ trợ của Chính phủ. Khi thử nghiệm mới có số liệu để đưa ra lời khuyên cho cả vùng đó dùng nước thế nào”, GS.TS Hồng nói.

Giữa tháng 3/2020, sông Hậu qua Cần Thơ vẫn ăm ắp nước ngọt

NƯỚC XA KHÔNG CỨU ĐƯỢC LỬA GẦN
Phản bác lại ý kiến trên, TS. Tô Văn Trường, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi Miền Nam cho rằng “nước xa không cứu được lửa gần”. TS. Trường phân tích: “Đề xuất của GS.TS Vũ Trọng Hồng chuyển nước từ miền Đông sang miền Tây để cứu ĐBSCL khắc phục tình trạng hạn, kiệt, mặn là viển vông, không thực tế. Minh chứng ngày 28/3/2020 lưu lượng chảy xuống hạ lưu của Trị An là 70m3/s và của Srok Phú Miềng là 56,7m3/s. Bên Dầu Tiếng không xả xuống sông. Lưu lượng Srok Phú Miềng về tới Phước Hòa dù có xả toàn bộ xuống sông Bé thì tại ngã ba Trị An tổng cộng cũng chỉ có 126,7m3/s. Trong khi đó lưu lượng chảy về tại Tân Châu + Châu Đốc, chỉ tính lưu lương nước ngọt từ thương lưu chảy về, lớn hơn con số trên cả vài chục lần. Lưu lượng Tân Châu + Châu Đốc không đủ chống xâm nhập mặn thì chuyển thêm một lượng nước chút xíu liệu có ích gì hay là lại tạo ra một thảm họa thiếu nước cho miền Đông vì ngay TP.HCM cũng nhiều lúc phải yêu cầu hồ Trị An và Dầu Tiếng xả nước đẩy mặn cho việc cấp nước sinh hoạt của người dân”
Về ý kiến của GS.TS Hồng cho rằng trước đây, khi có Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên chứa nước, nó đẩy nước mặn ra nên vào mùa nước mặn, ĐBSCL không gặp vấn đề gì thì TS Trường đánh giá là không thực tế. Phân tích của TS Trường, chế độ khí hậu ĐBSCL là chế độ khí hậu gió mùa nhiệt đới gần xích đạo, có mùa khô, hạn, kiệt trùng với hoàn lưu gió mùa Đông Bắc kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4 hoặc tháng 5 năm sau (tùy từng năm). Mùa mưa, lũ lụt trùng với hoàn lưu gió mùa Tây Nam kéo dài từ tháng 6 đến tháng 11. Mùa khô, hạn, kiệt, mặn ĐBSCL tương phản cực kỳ sâu sắc với mùa mưa, lũ, lụt. Mùa lũ trong các vùng trũng như Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười ngập lụt sâu, kéo dài ngày, vì vậy vào mùa mưa lũ nơi đây nhân dân ta có câu “chó không có chỗ mà nằm”. Liền ngay sau đó, vào mùa khô, nước trong các vùng ngập lụt rút nhanh dồn hết vào sông, kênh rạch, tiếp tục rút nhanh dần ra biển theo quy luật thủy văn sông Mê Công và đạt mức thấp nhất năm vào tháng 3 hoặc tháng 4 (tùy từng năm), làm cho các vùng ngập lụt ĐBSCL như Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên (mà nhiều người ở xa lầm nghĩ rằng đó là những hồ chứa nước) đã trơ đáy khô nứt nẻ suốt liên tục trong các tháng 2 và 3 có năm kéo dài tới tháng 4 đầu tháng 5, lấy đâu ra nước để đẩy mặn cho ĐBSCL?! Vì vậy, nhân dân ĐBSCL có câu “vào mùa khô, hạn-kiệt đất đai khô hạn nứt nẻ, nóng nực đến mức không một loài giống nào mà con đực dám bén mảng đến gần con cái”.
Lược lại lịch sử phát triển thủy lợi ở ĐBSCL từ thời cụ Thoại Ngọc Hầu cho tới nay đã trên 200 năm, TS. Trường nhấn mạnh: “Muốn ngọt hóa, phải xây dựng hệ thống cống điều khiển dòng mặn, ngọt thích hợp cả đầu ra và đầu vào trên hệ thống kênh trục, sông nhánh phụ, sông cụt,.. biến lòng dẫn của chúng thành hệ thống hồ chứa nước hoạt động lưu động theo thời gian và nhịp điệu của từng con triều để bẫy triều, kiểm soát mặn, tích ngọt. Hệ thống này chỉ hoạt động trong thời gian cao điểm mùa khô nói trên, mùa mưa mở toang hết các cửa cống điều khiển cả đầu ra và đầu vào trở lại thông thương bình thường. Tiềm năng trữ nước trên toàn vùng ĐBSCL ứng với lúc lũ đạt đỉnh đối với năm nhiều nước (2000), năm trung bình nước (2004) và năm ít nước (2016) dao động trong khoảng từ 5-23 tỷ m3. Còn ngay đầu mùa khô thì khả năng chứa nước thực tế trên đồng ruộng kênh rạch của vùng ĐBSCL dao động trong khoảng 2,5-3,8 tỷ m3. Riêng vùng Đồng Tháp Mười khoảng 700 triệu – 1,1 tỷ m3; vùng Tứ giác Long Xuyên khoảng 590-740 triệu m3 (…) Ý tưởng chuyển nước từ Miền Đông sang Miền Tây để cứu ĐBSCL thực ra đã phạm phải phải một câu tối kỵ trong binh pháp: “Nước xa không cứu được lửa gần”.

Cũng giữa tháng 3/2020, nhiều kênh ở ĐBSCL bị cạn khô. Ảnh: NGỌC DUYÊN-HÒA HỘI

KHÔNG HỢP LÝ, VIỄN VÔNG VÀ CHUYỆN CÁI LU
GS Đào Xuân Học, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam (nguyên Thứ trưởng Bộ NN&PTNT) thống nhất với quan điểm của TS Trường và đánh giá ý kiến của GS.TS Hồng là không hợp lý. GS Học nói: “Hiện thời, từ hồ Dầu Tiếng xả qua kênh Đức Hoà-Đức Huệ khoảng 15 m3/s để đẩy mặn cho sông Vàm Cỏ, đây là việc không hợp lý, chỉ là giải pháp trước mắt. Về lâu dài không thể như vậy được vì: Tổng lượng dòng chảy lưu vực sông Đồng Nai có 33 tỷ m3 cung cấp nước cho một vùng kinh tế với GDP chiếm 40% của cả nước. Nay lại xả nước lưu vực có tổng lượng dòng chảy 430 tỷ m3, GDP rất nhỏ, dân số cũng gần tương đương nhau”.

Cũng giữa tháng 3/2020, nhiều kênh ở ĐBSCL bị cạn khô. Ảnh: NGỌC DUYÊN-HÒA HỘI

Một nhà nghiên cứu trẻ tuổi là Tô Quang Toản xưng cháu với TS. Trường cũng bày tỏ: “Cháu đồng ý với chú đánh giá này”. Anh Toản thẳng thắn: “Ý tưởng chuyển nước từ miền Đông sang miền Tây là viễn vông, không thực tế, ví von chẳng khác gì pha nước ngọt vào biển để biển bớt mặn vì khả năng dòng chảy sông Sài Gòn -Đồng Nai là rất nhỏ so với dòng chảy sông Mê Công, nhu cầu nước để đẩy mặn một cách tự nhiên không cần đến biện pháp công trình là rất lớn so với khả năng chia sẻ từ Sài Gòn-Đồng Nai. Trong khi đó nguồn nước từ lưu vực Sài Gòn-Đồng Nai cũng không phải là dư giả, cũng vẫn thường bị hạn mặn hàng năm, vì vậy cần được coi là nguồn tài nguyên chiến lược bởi mỗi khối nước sử dụng từ nguồn này có thể đem lại giá trị kinh tế cao hơn các vùng khác. Trong khi đó nhu cầu nước cho sản xuất và sinh hoạt trên ĐBSCL còn nhỏ hơn rất nhiều so với tiềm năng nguồn nước của sông Mê Công, vì vậy rất cần các giải pháp điều tiết nước phù hợp”.
Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc với cái nhìn của người nghiên cứu lịch sử: “Tôi nhớ lại cuộc hội thảo về Vĩnh Tế ở An Giang, mà bác Sáu Dân rất quan tâm, phải có cái nhìn tổng thể, liên quan đến đất nên phải kết hợp nhiều công dụng, kể cả quốc phòng và biên giới như cụ Thoại Ngọc Hầu chủ trương. Bây giờ mỗi vùng, mỗi ngành, mỗi lúc (nhiệm kỳ) chỉ nhìn xuống mũi bàn chân mình thôi thì vừa tốn lại kém.
Riêng tôi vẫn nhớ câu chuyện cái lu, rõ ràng mỗi người dân, mỗi gia đình tham gia vào việc giữ nước là hiệu quả trước hết là ý thức tiết kiệm và trách nhiệm với cái chung. Tôi nhớ ở nhà quê, những gia đình không có ao hay bể nước mùa hạn muối mặt đi xin hàng xóm thấy xấu hổ lắm, không hẳn vì nghèo. Nếu cứ dựa vào nhà nước phải lo thì khó thành công bền vững lắm. Ao bây giờ bị coi là xa xỉ, nhưng nếu biết khai thác sẽ có hiệu quả cả về kinh tế và môi trường cho chính người sở hữu, dần thay đổi bài toán sẽ có nhiều người khi khá giả hơn sẽ đào thay lấp. Mỗi nhà có bể nước hứng mưa, nhỏ là cái lu, to là cái thùng tôn hay nhựa, sợ tốn đất thì làm bể ngầm dưới sàn nhà hay dựng tháp, nhà nào cũng quan tâm thì nhỏ thành lớn.
Nước ao hay nước thải sử dụng không quá ô nhiễm thì tưới rau. Bây giờ nông thôn xây toa lét xịn mà không có hệ thống thải là một bế tắc phổ biến. Đương nhiên thời đại văn minh ta phải bảo đảm tiện nghi vệ sinh và mỹ quan nhưng đừng lấy đô thị làm chuẩn tuyệt đối để nông thôn phải làm theo, nước máy, điện lưới… khi mọi người dân đều tham gia tự lo việc nước thì đấy cũng là việc Nước Quốc gia đại sự vậy”.

SÁU NGHỆ

Bài viết liên quan

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM NHIỀU NHẤT