“Đếm cua trong lỗ”
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang được mô tả là như một mối lợi cho cả 12 nước tham gia. Đặc biệt, trong thời gian qua xuất hiện trên các phương tiện truyền thông những đánh giá mang tính chủ quan rằng: với TPP, Việt Nam là quốc gia “hưởng lợi nhiều nhất”.
Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố: “Với TPP, Trung Quốc không phải là người tạo ra luật lệ ở khu vực đó mà là chúng ta”. Nhưng tình hình kinh tế thì không được mạnh mẽ như vậy. Sự thật là dù TPP sẽ đem lại một số lợi ích, hầu hết lợi ích sẽ được dồn cho các tập đoàn lớn và những người dân thường sẽ phải trả giá.
Trên thực tế, xung quanh Hiệp định TPP, cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Ngay cả ở Hoa Kỳ, quốc gia được cho là đang “dẫn dắt” và “làm chủ cuộc chơi”, thì những đánh giá của các chuyên gia kinh tế dường như cũng “không quá đề cao” TPP về phương diện kinh tế. Những phân tích bình luận đa phần đều cho rằng TPP mang ý nghĩa chiến lược về phương diện chính trị – ngoại giao chiến lược nhiều hơn, như một sự “xúc tác” cho chiến lược “xoay trục” sang châu Á của Mỹ.
Về mặt lợi ích, một nghiên cứu của chính phủ Mỹ về vấn đề này dự kiến rằng, đến năm 2025, TPP sẽ gia tăng tốc độ tăng trưởng GDP của các nước thành viên nhiều nhất chỉ là khoảng 0,1%. Gần đây hơn, Ủy Ban Thương Mại Quốc Tế Mỹ (ITC) ước tính rằng, đến năm 2032, TPP sẽ gia tăng tốc độ phát triển kinh tế Mỹ thêm 0,15% (42,7 tỷ USD) và tăng thu nhập thêm 0,23% (57,3 tỷ USD). [1]
Nhưng những người ủng hộ TPP gần như đã phớt lờ những kết quả này, và chỉ trích dẫn hai nghiên cứu của Viện Kinh tế Quốc tế Peterson (PIIE), một đơn vị nghiên cứu nổi tiếng là ủng hộ toàn cầu hóa kinh tế. Năm 2012, PIIE tuyên bố rằng TPP sẽ gia tăng tổng GDP trong các nước thành viên khoảng 0,4% sau mười năm. Và gần đây, PIIE công bố rằng TPP sẽ tăng tổng GDP ở mức 0,5% trong 15 năm sắp tới. Trong một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (World Bank) được phát hành cùng trong tháng đó, những tác giả bài nghiên cứu của PIIE tính toán rằng GDP của các nước thành viên TPP sẽ tăng trung bình 1,1% đến năm 2030. [2] Rõ ràng có cái gì đó rất khập khiễng trong những số liệu tính toán và đánh giá.
Tại Việt Nam, sau khi Hiệp định TPP được chính thức ký kết và chờ Quốc hội các bên thông qua, rất nhiều hội thảo liên quan đến vấn đề TPP của các Bộ, ngành đã được tổ chức. Nội dung của phần lớn các cuộc hội thảo không gì khác hơn là “tua lại” những số liệu tính toán dự báo đã từng được công bố của Ngân hàng thế giới, của một số chuyên gia kinh tế về một triển vọng đầy “sáng sủa”: TPP có thể giúp GDP Việt Nam tăng thêm 23,5 tỷ USD vào năm 2020; tăng 33,5 tỷ USD vào năm 2025; xuất khẩu sẽ tăng thêm được 68 tỷ USD vào năm 2025; rằng Việt Nam có thể là nước được hưởng lợi nhiều nhất trong số 12 nước tham gia TPP… [2]
Còn nhớ năm 2007, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã phải hứng chịu ngay “mùi đòn” của thời hội nhập: cuộc khủng hoảng tài chính thế giới diễn năm 2008 đã khiến nhiều nền kinh tế trên thế giới lao đao, nhanh chóng dội ngược đến Việt Nam. Hệ quả là tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chững lại, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, lạm phát tăng cao, hàng trăm doanh nghiệp trong nước phá sản hoặc phải sát nhập… Dư âm cuộc khủng hoảng còn kéo dài cho đến mấy năm sau đó, kinh tế Việt Nam mới có thể dần lấy lại đà tăng trưởng.
“Cú sốc” năm 2008 đối với nền kinh tế Việt Nam đã khiến không ít chuyên gia kinh tế cảm thấy bất ngờ. Bởi so với nhiều quốc gia đã có nền kinh tế thị trường thực sự, hội nhập khá sâu vào nền kinh tế toàn cầu, thì sự tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính nói trên diễn ra sẽ nhanh hơn và mức độ chịu tác động cũng sẽ lớn hơn. Đối với Việt Nam, dù năm 2007 gia nhập WTO thì cũng là trên phương diện hình thức, còn về thực tế thì kinh tế Việt Nam vẫn chưa hội nhập sâu với kinh tế toàn cầu bởi nền kinh tế thị trường của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Vấn đề đặt ra ở đây là vậy tại sao Việt Nam vẫn chịu tác động nhanh đến thế? Câu trả lời đó là công tác dự báo của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Chính vì không lường trước được tình hình và dự báo chậm nên Việt Nam đã tỏ ra lúng túng trong đối phó với khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Bài học từ ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Một điều rất đáng lo ngại là cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu và dự báo nào mang tính tổng thể và dài hạn về những rủi ro có thể xảy ra đối với nền kinh tế Việt Nam trước những tác động từ mặt trái của TPP gây ra.
“Đếm cua trong lỗ” là một thành ngữ khá phổ biến của người Việt. Nghĩa đen của thành ngữ trên là khi cua ở trong lỗ thì mình sẽ không nhìn thấy, nên đếm cua khi cua còn đang ở trong lỗ sẽ không có kết quả đúng. Nhưng ẩn dụ sâu xa là đừng tính toán trước hoặc vẽ ra những kế hoạch cho những gì mình chưa chắc chắn có được và nhất là thiếu cơ sở, còn nhiều biến số.
Với kinh tế, tính chính xác là rất quan trọng. Những số liệu dự kiến đưa ra với TPP có lẽ chỉ nên dừng lại ở mức độ tham khảo. Nếu không, chính chúng ta đang tự huyễn hoặc mình theo kiểu “đếm cua trong lỗ”. Lúc đó, hậu quả sẽ rất khôn lường.
![]() |
Năng lực của doanh nghiệp VN: rất đáng lo ngại
Da giày và dệt may được xem là hai mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu của Việt Nam sau khi TPP có hiệu lực. Đây cũng là những lĩnh vực mà Việt Nam đặt nhiều kỳ vọng, sẵn sàng cam kết xóa bỏ thuế quan, đưa về mức 0% ngay khi Hiệp định TPP có hiệu lực. Đây cũng là những ngành được hỗ trợ rất nhiều từ phía Chính phủ, nhiều dự án phát triển tham vọng được đề ra.
Chỉ tính riêng ngành dệt may, số liệu cho thấy, hiện có khoảng 2,5 triệu lao động tham gia trực tiếp vào ngành này, trong đó đa số là phụ nữ. Hiện tại, dệt may chiếm 13,6% tổng giá trị xuất khẩu, đứng thứ hai, sau hàng điện tử về kim ngạch xuất khẩu ròng. Năm 2013, thị phần của Việt Nam trong ngành may mặc toàn cầu là 3,7%. Những con số đủ để củng cố niềm tin rằng với TPP, da giày và dệt may Việt Nam sẽ thực sự “cất cánh”.
Tuy nhiên, trái ngược với dự đoán, những con số thống kê trong báo cáo sản xuất 6 tháng đầu năm 2016 vừa qua của hai ngành này đã như “gáo nước lạnh” dội vào những kỳ vọng vừa được nhen nhóm.
Số liệu từ Bộ Công Thương và Bộ Kế hoạch – Đầu tư cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 2016, tốc độ tăng trưởng của ngành da giày đã giảm 9% so với cùng kỳ năm ngoái (tốc độ tăng trưởng của ngành da giày năm 2015 tăng 16% so với năm 2014, tuy nhiên trong 6 tháng đầu năm 2016 thì ngành chỉ đạt tốc độ trên 7%, riêng túi xách thì tốc độ vẫn đạt được gần 14%). Xuất khẩu cũng có dấu hiệu chững lại. Nửa đầu năm 2016, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành da giày, túi xách đạt 6,3 tỷ USD, trong đó: da giày 5 tỷ USD (tăng 6,2%) và túi xách các loại đạt 1,3 tỷ USD (tăng 21,5%) so với cùng kỳ năm 2015.
Tình hình của ngành dệt may cũng không sáng sủa hơn. Báo cáo tình hình sản xuất 6 tháng đầu năm của Hiệp hội Dệt May Việt Nam cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 2016, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may đạt hơn 12,6 tỉ USD chỉ đạt 41% kế hoạch năm và chỉ tăng một cách khiếm tốn: gần 5% so với cùng kì năm 2015. Mục tiêu xuất khẩu đạt 31 tỷ USD trong năm 2016 của Hiệp hội Dệt may Việt Nam đặt ra đã “tan thành
mây khói”!
Đáng lo ngại hơn, đại diện Ngân hàng Thế giới (WB) ở Việt Nam cũng đánh giá không mấy khả quan về ngành dệt may Việt Nam khi so sánh: Campuchia và Việt Nam là hai nước xuất hàng dệt may sang EU, song hiện tại hàng dệt may chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Campuchia, trong khi Việt Nam chỉ là 16%. Trong vòng 4 năm (2012 – 2016), xuất khẩu hàng dệt may của Campuchia ở EU tăng gấp 4 lần, còn tính theo giá trị danh nghĩa Campuchia đã xuất khẩu gần 2,2 tỉ USD hàng dệt kim vào EU trong năm 2014. Con số này gấp 3 lần giá trị xuất khẩu dệt may vào EU của Việt Nam.
Trước sự “bết bát” của ngành được cho là mũi nhọn xuất khẩu nói trên, một số chuyên gia giải thích: sở dĩ xuất khẩu dệt may của Campuchia sang thị trường EU tăng nhanh là do Campuchia được ưu đãi theo hệ Everything But Arms (EBA) – chương trình dành cho hàng hóa xuất khẩu của các nước kém phát triển nên được hưởng thuế xuất 0% (trong khi hàng dệt may Việt Nam vào EU vẫn bị đánh thuế 9,6%).
Nhưng dù giải thích thế nào thì thực trạng sản xuất của ngành dệt may Việt Nam hiện nay đã và đang khiến nhiều người lo ngại: dù kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam luôn tăng, nhưng giá trị thì không tăng đáng kể. Thêm vào đó, hiện nay các doanh nghiệp dệt may trong nước mới chỉ tập trung vào khâu gia công xuất khẩu là chính, còn các nguyên phụ liệu thì gần như nhập từ nước ngoài (hơn 80%). Điều đó đồng nghĩa khi TPP có hiệu lực, cùng với quy tắc về quy trình sản xuất, nguồn gốc xuất xứ, mức thuế suất 0% dành cho hàng dệt may Việt Nam khi xuất khẩu sang các thị trường là thành viên khối TPP càng trở nên xa vời.
Cuộc chơi đầy “mặc cả”
Tại buổi Hội thảo “Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) – Những ảnh hưởng tới quyền sở hữu trí tuệ, Thuế và Thương mại tại Việt Nam” do Câu lạc bộ Luật sư Thương mại Quốc tế Việt Nam phối hợp với Công ty Luật TNHH Baker & McKenzie (Mỹ) tổ chức tại Hà Nội mới đây, nhiều vấn đề được cho là “góc khuất” của Hiệp định TPP đã được thẳng thắn đề cập đến và “mổ xẻ” dưới nhiều góc độ.
Ông Fred Burke, Giám đốc điều hành chi nhánh Công ty Luật Baker & McKenzie ở Việt Nam, một trong những chuyên gia đã tư vấn cho Việt Nam về vấn đề luật thương mại quốc tế trong đàm phán TPP đã nhận định: dù TPP được ký kết và đạt được thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam với các bên (trong đó có Hoa Kỳ) nhưng để TPP có hiệu lực thì còn là chặng
đường dài.
“Hiện nay, Quốc hội Hoa Kỳ vẫn chưa thông qua TPP. Tổng thống Barack Obama đã đưa ra Quốc hội nhưng Quốc hội bảo phải chờ đợi. Chỉ khi Quốc hội Hoa Kỳ thông qua thì hiệp định TPP mới có ý nghĩa với Việt Nam vì Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng GDP lớn nhất trong toàn khối”, ông Fred Burke nói.
Theo ông Fred Burke, hiện nay Việt Nam đang gặp một số khó khăn trong lộ trình biến TPP từ cam kết thành hiện thực hóa, cụ thể: “Hiện nay có tin không tốt cho phía Việt Nam là cả 2 ứng viên Tổng thống đều phản đối TPP. Với bà Hillary Clinton, thì có vẻ như đó là động thái thỏa hiệp chính trị để tranh thủ phiếu bầu, song một điều chắc chắn rằng nếu Quốc hội Hoa Kỳ ko thông qua TPP trong nhiệm kỳ Tổng thống Obama thì ở nhiệm kỳ Tổng thống sau, các bạn sẽ gặp khó khăn hơn. Ít nhất là Hoa Kỳ có thể đề nghị Việt Nam đàm phán lại về một số vấn đề như luật về hội, cải thiện nhân quyền, vấn đề công đoàn độc lập để đảm bảo lợi ích cho người lao động… dù rằng trước đó vấn đề này đã được đề cập đến trong TPP”.
Theo ông Fred Burke, từ “vướng mắc” trên, có thể thấy rằng việc Quốc hội khóa mới của Việt Nam cũng chưa biểu quyết thông qua TPP là điều dễ hiểu, bởi “vấn đề là ở phía Quốc hội Hoa Kỳ”. Ông Fred Burke nhận định: “Hiện nay, tôi được biết Quốc hội Việt Nam cũng chưa thông TPP. Nếu trường hợp Quốc hội Việt Nam biểu quyết thông qua TPP trước Quốc hội Mỹ thì cũng là điều tốt bởi qua đó thể hiện cam kết chính trị của Việt Nam là nghiêm túc thực thi và mong muốn sớm đưa TPP thành hiện thực. Song về ý nghĩa kinh tế thì vẫn chưa có giá trị thực. Mấu chốt vẫn là Quốc hội Hoa Kỳ phải thông qua. Đây có thể là lý do khiến Quốc hội Việt Nam đến nay vẫn chưa thông qua, mà có lẽ đợi phía QH Hoa Kỳ thông qua TPP trước”.
Bên cạnh đó, ông Fred Burke cũng không quên cảnh báo trường hợp xấu nhất có thể xảy ra trong lộ trình hiện thực hóa TPP của Việt Nam từ nay đến năm 2018: “Nếu trường hợp không đạt được sự thỏa thuận nào hay sự thông qua của Quốc hội Mỹ hoặc các bên, thì hiệp định TPP trong trường hợp VIệt Nam có thể sẽ tương tự như trường hợp như hiệp định tự do thương mại Hoa Kỳ với Hàn Quốc, nghĩa là sẽ kéo dài trong nhiều năm”.
Hoàng Sơn