Người dân Đà Lạt vốn quen hình ảnh một người đàn ông gần 90 tuổi, cởi trần, đeo mắt kiếng, mặc độc một chiếc quần đùi cứ sáng sớm lại dẫn con chó đi tập thể dục xung quanh hồ Xuân Hương. Một khuôn mặt phúc hậu, sáng rực, người tầm thước, thích nói chuyện với những người đồng hành cùng với ông trên chặng đường hơn 5 cây số quanh bờ hồ. Nhưng ít ai biết ông là một “người đàn ông kỳ lạ” ở Đà Lạt những năm 50 của thế kỷ trước. Ông tên là Nguyễn Phúc Bửu Dược.
Cha mẹ của ông đã tạo điều kiện cho ông vào học trường Lycée Yersin Đà Lạt. Những năm trong môi trường đặc biệt này, ông gần gũi thân quen nhiều bạn bè là con em người Pháp, những gia đình thượng lưu và quan trọng hơn cả là ông được giáo dục trong một môi trường đầy năng lực về tất cả các lĩnh vực trí, đức, dục mà vốn dĩ các trường học bên ngoài khó theo kịp.
Trong thời gian theo học ở trường Lycée Yersin Da Lat (1951-1954), cứ vào ngày thứ Năm và chủ nhật hằng tuần, ông theo bạn bè cùng trường tham gia nhiều hoạt động thể dục, thể thao như bóng chuyền, bóng đá, bóng rổ, học võ Judo, Karaté, boxing, bơi lội, lướt buồm, trượt ván (ski nautique), chạy ca nô, chèo thuyền … trên Grand Lac (hồ Lớn). Năm 1953, Grand Lac đổi thành hồ Xuân Hương.
Muốn được tham gia các hoạt động này, phải đăng ký nộp tiền và trở thành hội viên của Câu lạc bộ Thể thao Đà Lạt (Cercle sportif de Dalat). Câu lạc bộ này là nơi gặp gỡ, trao đổi và truyền đạt cho nhau những kinh nghiệm khi tham gia các môn thể thao “đẳng cấp” này. Ở nhà trường, hàng tuần đều có tiết học thể dục, thể thao… Ông tham gia tích cực vào đội bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, bóng bàn, điền kinh… ở trường; tìm thầy, học bạn về môn võ karate, judo, biểu diễn thể hình…Tuổi trẻ của ông là cuộc chơi không bao giờ ngưng nghỉ; cứ có cơ hội là ông tham gia.
Và một ngày, nghe ngóng nhiều thông tin về những chiếc xe mô tô từ Pháp gửi sang Việt Nam; được cha mẹ cho tiền, ông xuống Sài Gòn tìm đến hãng xe Scama chuyên bán loại xe Vespa Piagio của Ý mua một chiếc và gửi theo xe đò lên Đà Lạt.
Cảm giác lúc bấy giờ đối với một thanh niên như ông thật lâng lâng, sung sướng, thích thú biết dường nào. Nhưng để đi được xe phải có người hướng dẫn. Một chuyên viên người Pháp tên Dumourrier đã huấn luyện cấp tốc cho ông về cách chạy vespa như thế nào cho an toàn, huấn luyện cho ông những kỹ năng cần thiết khi “cưỡi” con xe này. Khác với xe Lambretta có bộ máy nằm ở giữa, xe Vespa bộ máy lại nằm nghiêng một bên, nếu không được học, khi cầm lái thì dễ đổ ngã. Vốn thông minh, ông “dợt” vài đường là thông thạo. “Cưỡi” xe vòng vòng quanh bờ hồ không biết chán. Một lần khác, ông và 4 người bạn cùng ngồi chung trên chiếc xe Vespa Piagio DAA 020 thay nhau lái. Ngay từ năm 1953, khi mới 18 tuổi, chàng thanh niên Bửu Dược đã “cưỡi” chiếc vespa Piagio rong ruổi hằng ngày trên các đường phố Đà Lạt, tham gia đua xe quanh hồ Xuân Hương.
Cứ mỗi lần hãng xe Vespa đưa sang Việt Nam mẫu mã mới, ông lại bán xe cũ và mua xe mới. Tổng cộng trong mấy năm, ông đã sử dụng đến 7 đời xe Vespa và chiếc xe Vespa mang bảng số DAA 020 là có nhiều kỷ niệm với ông. Hằng ngày, ông dùng xe chạy khắp thành phố Đà Lạt, xe qua con phố nào là gây nên hiệu ứng ở nơi đó. Đà Lạt vốn yên tĩnh, không có nhiều xe máy, bỗng nhiên một ngày có thêm âm mới lạ do tiếng động cơ tuy không lớn lắm nhưng rất dễ gây chú ý. Con gái nhìn theo anh chàng đẹp trai, mặc áo quần tươm tất, có khi mặc veston (demie saison), có khi áo khoác bludông (blouson), có khi áo sơ mi trắng, đeo cặp kiếng trắng…tăng tốc leo lên dốc, khi thì thả ga nhẹ nhàng cho xe xuống dốc… làm cho các cô gái mê mẩn, thán phục.
Được khen, ông “thừa thắng xông lên”, đứng thẳng người trên yên xe, dùng ngón chân rú ga cho xe chạy; có khi buông cả hai tay cho xe “tự lái” và có lúc ngồi gát cả hai chân lên đầu xe, dùng hai tay điều khiển. Độc chiêu nhất là tụ tập bạn bè, gồm 5 người (trong đó có ông) lên con “ngựa sắt” Vespa biểu diễn bằng cách khi xe đang chạy, thay nhau lái xe. Một người ngồi phía trước đầu xe, hướng nhìn về người lái xe; một người cầm tay lái, một người ngồi bệt xuống sàn xe, một người ngồi yên sau và một người ngồi lên bánh xe dự phòng. Một người bạn của ông dùng một chiếc xe do hãng khác sản xuất chạy trước, mang theo một can xăng máy bay khoảng 20 lít rải xăng xuống mặt đường thành vũng, còn ông thì lái xe Vespa chạy theo sau. Khi đến vũng xăng, ông cho càng xe nghiêng về một bên, rú mạnh ga cho càng xe tiếp xúc với đá nhựa trên đường tóe lửa; lửa bắt gặp xăng bốc cháy, còn xe ông thì đã vượt qua… Những đốm lửa dọc theo con đường đi quen thuộc sáng lên vào ban đêm rất đẹp…
Trong một lần tham gia dự thi lái xe, ông là người duy nhất ở Đà Lạt đoạt giải II “Lái Vespa khéo” do VINACO (đại diện của Hãng xe Lambretta) đóng tại Đà Lạt (nằm tầng trệt của Hôtel du Park) tổ chức.
Lễ hội Văn hóa du lịch “Duyên dáng Vespa” trong dịp festival Hoa Đà Lạt, lễ hội văn hóa trà tổ chức ở ở thành phố Đà Lạt và Bảo Lộc, những người cùng thế hệ với ông, hoặc nhỏ hơn ông dăm bảy tuổi, thường nhắc đến ông – một “tín đồ” đầu tiên của Vespa ở Đà Lạt.
Tuổi trẻ ham vui, ham khám phá, không có việc gì mà ông không thử nghiệm một lần. Một người bạn Pháp làm đại diện hãng tin A.F.P (Agent France Presse) tại Việt Nam, thấy ông nhanh nhẹn và thích khám phá đã động viên ông làm thông tín viên thường trực cho A.F.P, cung cấp thông tin và có thêm thu nhập, vậy là ông “chơi” tới luôn.
Không những chạy xe Vespa trên các đường phố Đà Lạt và vòng quanh hồ Xuân Hương, năm 1954, ông một mình với con “ngựa sắt” Vespa thân yêu mang theo lỉnh kỉnh máy ảnh, máy quay phim, ba lô giấy bút … từ Đà Lạt leo đèo, vượt đường xa ra đến Tourane (Đà Nẵng) vào tận “sào huyệt” của một đơn vị quân Pháp và lính Việt đang chuẩn bị hành quân để lấy…tin.
Cuối năm 1954, ông sang Pháp, vào học ngôn ngữ ở trường Đại học Sorbonne do Pháp cấp học bổng. Ngày đó đi học đại học không mất tiền, miễn sao thi được vào trường. Ông được cha mẹ cho tiền ăn ở, ông làm thêm gia sư (précepteur). Nhờ quen biết một số người bạn Pháp khi học ở trường Lycée Yersin Dalat nên khi sang Paris học tập, ông đều được mọi người giúp đỡ rất nhiệt tình. Ông rất cảm ơn những người bạn Pháp đó, vì họ giúp đỡ “không vụ lợi”, còn mời ông đi khiêu vũ, dạ hội, đi tập đánh golf, tennis, lái xe hơi và thậm chí còn cho leo lên máy bay “con chuồn chuồn” đi tham quan thành phố Ba Lê hoa lệ; đi thăm những di tích lịch sử của Pháp như Invalide ,Viện bảo tàng Louvre v.v…
Hằng năm, vào dịp nghỉ hè, ông vẫn tranh thủ về Đà Lạt thăm cha mẹ và các anh chị em, lại có cơ hội tụ tập bạn bè tham gia lướt sóng trên hồ Xuân Hương, chạy xe vespa trên đường… như một đam mê không cưỡng nổi.
Năm 1960, ông về hẳn Việt Nam và tham gia dạy học đầu tiên tại trường Taberd ở Sài Gòn (sau này gọi là Lasan). Không những truyền đạt cho học sinh tiếng Anh, Pháp, ông còn trang bị thêm tiếng Đức, Tây Ban Nha… cho những học sinh có nhu cầu.
Ngay từ năm 1960 khi về nước, bên cạnh dạy học, ông còn được mời lên Ban Mê Thuột làm phiên dịch cho cơ quan tình nguyện quốc tế IVS (international volontary service). Đến năm 1965, ông được ngành giáo dục điều về dạy tiếng Pháp ở trường trung học Kiến Phong (nay là tỉnh Đồng Tháp). Đó là những năm tháng dạy học mà ông rất ấn tượng và có nhiều kỷ niệm. Các thế hệ học trò của ông trong giai đoạn này về sau trở thành thạc sĩ, tiến sĩ hoạt động ở nước ngoài; nhiều người trưởng thành trong nước và đảm đương những chức vị quan trong trong bộ máy chính quyền mới; có người mang hàm cấp tướng trong lực lượng công an nhân dân Việt Nam.
Năm 1971, ông rời Kiến Phong theo gia đình về ở hẳn Đà Lạt và tham gia giảng dạy song ngữ Anh – Pháp cho nhiều trường như: Trí Đức, Quang Trung, Văn Học…
Sau ngày giải phóng 1975, ông tiếp tục làm gia sư cho nhiều người và mở lớp dạy tại nhà, cũng là dịp để ông ôn lại kiến thức mà không bị mai một. Ông tranh thủ đọc sách, dịch sách từ nguyên bản tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức sang tiếng Việt. Kiến thức ngày càng củng cố khi ông dành thời gian tìm đọc nhiều tài liệu liên quan đến Y khoa, khoa học, Kinh tế, thể thao, giáo dục, ngoại ngữ…
Thời gian như liều thuốc thử thách sự kiên định của con người. Ngoài việc trang bị khả năng về ngôn ngữ cho các thế hệ học sinh, cho cán bộ công chức, ông còn làm nhiệm vụ phiên dịch cho nhiều chuyên gia đến Đà Lạt làm việc. Ông cũng từng được mời làm phiên dịch cho công trình ốplát đá do nước Ý tài trợ khai thác mỏ đá ở xã Lộc Thắng, huyện Bảo Lộc (nay là thị trấn Lộc Thắng, huyện Bảo Lâm).
Năm 1983, khi Vương quốc Đan Mạch trở lại làm Nhà máy nước Suối Vàng, ông được mới làm phiên dịch. Nhà máy yêu cầu phải là người am hiểu tiếng Đức, Tây Ban Nha, tiếng Pháp. Ông và một người bạn khác được chọn làm phiên dịch.
Hơn mấy năm làm phiên dịch, ông cũng tích lũy được nhiều kiến thức trong mối quan hệ trực tiếp với các chuyên gia và những việc gì cần làm, việc gì không nên làm. Và ông hiểu rằng, trang bị kiến thức ngoại ngữ là hết sức cần thiết cho tất cả các mối quan hệ; cũng nhờ vậy mà luôn trở thành “tín đồ” mê đọc sách nước ngoài. Ngoài việc dành thời gian cho rèn luyện thể lực, tập thể dục, tham gia thể thao, việc đọc sách cũng làm cho trí não của ông tỉnh táo hơn, thông minh hơn. Ông thường quan niệm: Sống già, sống thọ không phải là tốt mà phải biết lấy sự sống thọ để làm việc có ích cho xã hội mới gọi tốt. Còn sống già, sống thọ mà nằm liệt giường làm khổ cho con cháu và bao người khác là không nên.
Không thể tượng tượng một người đã qua tuổi “xưa nay hiếm”, lại có lịch sinh hoạt rất điều độ: Hằng đêm, cứ từ 20 giờ đến 21 giờ là ông tắt tất cả các thiết bị điện, kể cả điện thoại, ngoại trừ tủ lạnh và đi ngủ. Đúng 3 giờ sáng thức dậy, tập các động tác làm ấm người trên giường, khoảng 30 phút mới đặt chân xuống đất. Tiếp tục uống một ly nước lạnh. Ông cho rằng: Qua một đêm ngủ, chúng ta mất khoảng 1 lít rưỡi nước, nên phải uống nước bù vào. Sau đó tiếp tục tập thở sâu khoảng vài chục cái, và riêng ông bắt đầu cởi trần (nay có mặc áo may-ô) cho dù thời tiết ở Đà Lạt có thay đổi, ông vẫn dắt chú chó thân yêu đi bộ từ nhà ở đường Thông Thiên Học xuống đường Bùi Thị Xuân và dạo quanh hồ Xuân Hương khoảng hơn 10 cây số cả đi lẫn về. Trở lại nhà, việc đầu tiên là vệ sinh, ăn sáng trước 8 giờ; tiếp tục lao động, làm việc, đọc sách, dạy học và có khi tiếp những “khách không mời” mà đến chơi nhà. Riêng buổi trưa, theo ông phải ăn uống đúng giờ, khoảng từ 11 giờ đến 12 giờ 30, chậm lắm là 13 giờ. Chỉ được phép nhắm mắt khoảng 15 phút ban trưa (không được ngủ trưa) để có thêm năng lượng chiều làm việc tiếp. Buổi tối ăn nhẹ, tiếp tục tập thở thật chậm. Mỗi ngày ít nhất phải dành ba lần tập thở. Thở rất quan trọng. Nhờ vậy, mà trong suốt hơn nửa thế kỷ qua ông không biết bệnh viện là gì.
Ít ai biết rằng, hằng ngày ông tự giặt giũ áo quần, tự tắm rửa, chùi nhà, lau bếp, nhà vệ sinh; tiền bạc tự tạo mà không bao giờ nhờ cậy con cháu. Ông bảo: Con cháu đều có gia đình riêng, phải còn lo toan bao thứ. Những gì mình làm được thì mình làm, vừa tự do, vừa thoải mái, không phải cậy nhờ ai. Con cháu thấy ông giặt từng cái áo cái quần, lao động nhà cửa không đành lòng, bảo ông, nhưng ông không chịu. Góp ý, ông bảo: Mình còn khỏe, mình tự làm, không làm phiền ai cả. Khi nào không làm được nữa, hẳn hay.
Ai gặp ông một lần, điều dễ nhận thấy, là ông nói nhiều. Nói nhiều, nhưng không thừa, vì những gì ông nói ra đều rất cần thiết cho người nghe để học hỏi. Ai không kiên nhẫn thì khó tiếp nhận. Ai cầu thị, thì thật bổ ích, vì thế mà tuần nào, tháng nào, tôi cũng cố gắng gặp ông một lần. Kiến thức của ông là vô hạn, năng lực truyền đạt của ông là vô cùng, chỉ tiếc mình không có thời gian nhiều để được ở bên ông, được nghe ông kể chuyện.
Gần 90 mùa xuân, ai đã từng gặp ông đều nhận ra một người đàn ông khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, nói năng lưu loát, minh mẫn, trí nhớ tuyệt vời. Đặc biệt hơn nữa là hiện giờ ông vẫn còn “đứng lớp” dạy học trò tại nhà cho nhiều thành phần, mọi lứa tuổi từ mẫu giáo cho đến các thầy cô giáo chuyên ngành ngôn ngữ lấy bằng thạc sĩ, tiến sĩ. Dứt khoát, đó là ông Nguyễn Phúc Bửu Dược ở Đà Lạt.
TRẦN NGỌC TRÁC