Tóm tắt
Chi ngân sách nhà nước (NSNN) bao gồm hai bộ phận chính là chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, trong đó chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn nhất và có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với phát triển KT-XH đất nước. Quá trình thực hiện công tác, kiểm soát chi (KSC) thường xuyên NSNN qua kho bạc Nhà nước (KBNN) vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập như: Sử dụng NSNN vẫn kém hiệu quả, lãng phí, thất thoát, dễ phát sinh tiêu cực. Công tác KSC còn phân ra nhiều lĩnh vực với nhiều hình thức khác nhau dẫn đến tình trạng chồng chéo, khó theo dõi tổng thể; nhiều khoản chi chưa có đủ cơ sở để KBNN kiểm soát đến khâu cuối cùng và chưa có cơ chế quy trách nhiệm trong thực hiện một số nghiệp vụ chi cụ thể; chưa có cơ chế tổng thể và thống nhất để kiểm soát giá mua sắm một số hàng hóa dịch vụ một cách chặt chẽ và có hiệu quả nhất. Cán bộ làm nhiệm vụ chi ngân sách tại các đơn vị sử dụng NSNN còn có tình trạng chưa am hiểu đầy đủ về quản lý NSNN và chưa được đào tạo đồng đều. Việc phân công nhiệm vụ KSC trong hệ thống KBNN còn bất cập, chưa tạo điều kiện tốt nhất cho khách hàng. Việc thực hiện chế độ công khai minh bạch trong chi tiêu ngân sách của những đơn vị sử dụng ngân sách còn hạn chế. Do vậy, thực hiện công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN còn bộc lộ những hạn chế và tồn tại, ảnh hưởng đến chất lượng sử dụng ngân sách, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và cải cách thủ tục hành chính trong xu thế đẩy mạnh mở cửa và hội nhập quốc tế.
Những năm qua, KSC thường xuyên NSNN qua KBNN của nước ta nói chung và KBNN Văn Giang, tỉnh Hưng Yên nói riêng đã có những chuyển biến tích cực, đạt được nhiều kết quả tốt, đã từng bước được cụ thể theo hướng hiệu quả, ngày một chặt chẽ và đúng mục đích hơn cả về quy mô và chất lượng. Kết quả của thực hiện công tác KSC đã góp phần quan trọng trong việc sử dụng NSNN ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong quá trình kiểm soát chi thường xuyên của các đơn vị sử dụng NSNN huyện Văn Giang vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, tồn tại ảnh hưởng đến chất lượng sử dụng ngân sách, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và cải cách thủ tục hành chính trong xu thế đẩy mạnh mở cửa và hội nhập quốc tế.
Mặt khác, lý luận về công tác KSC NSNN nói chung và KSC thường xuyên NSNN qua KBNN nói riêng trong nền kinh tế thị trường chưa được nghiên cứu đầy đủ để áp dụng. Vì vậy, công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN Văn Giang cần tiếp tục được hoàn thiện một cách khoa học và có hệ thống. Từ nhận thức những quan điểm, lý luận về quản lý và kiểm soát chi thường xuyên từ nguồn vốn NSNN, qua nghiên cứu phân tích, đánh giá, chúng tôi đề xuất một số giải pháp hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên qua KBNN Văn Giang trong thời gian tới.

Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện KSC thường xuyên NSNN qua kho KBNN
Tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích tổng hợp, kết hợp với suy luận logic. Đồng thời, trong quá trình thực hiện còn sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê các số liệu từ các báo cáo định kỳ, báo cáo năm của KBNN, KBNN Văn Giang các năm đã công bố để làm rõ mục tiêu nghiên cứu của đề tài, theo chúng tôi cần tập trung thực hiện tổng hợp 5 nhóm giải pháp sau.
Thứ nhất: Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách.
Trong nhóm giải pháp này cần phối hợp, triển khai đồng bộ các nhóm công tác sau.
Một là: Xây dựng đồng bộ hệ thống các văn bản quy định cơ chế kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua Kho bạc Nhà nước theo hướng thống nhất gọn lại hệ thống văn bản Kiểm soát chi .
Bổ sung, sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước nhằm bảo đảm tính khoa học, tiên tiến, hiện đại, phù hợp với xu thế hội nhập và thông lệ quốc tế, đặc biệt là đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của Việt Nam. Sửa theo hướng: về dự toán Ngân sách nhà nước Cơ quan tài chính các cấp chịu trách nhiệm quản lý dự toán và truyền số liệu dự toán (cả phân bổ và điều chỉnh) sang KBNN theo chương trình thống nhất để KBNN thực hiện. Quy trình phân bổ dự toán NSNN được thực hiện từ trên xuống, cụ thể dự kiến như sau: Quản lý các danh mục tổ hợp tài khoản sử dụng để phân bổ ngân sách, quản lý danh mục các mã dự toán, mã tổ chức dự toán, quy trình điều chỉnh dự toán và giao dự toán cho các đơn vị sử dụng ngân sách; quản lý các quy trình tạo và nhập dự toán vào hệ thống, bao gồm quy trình tạm cấp kinh phí, quy trình nhập dự toán ngân sách được Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp quyết định vào hệ thống, quy trình phân bổ dự toán theo chức năng, quy trình này được phân bổ từ trên xuống, quy trình điều chỉnh dự toán đã giao cho các đơn vị sử dụng ngân sách, quy trình ứng trước dự toán.
Như vậy, KBNN phải có chương trình thống nhất để quản lý toàn bộ dự toán từ cấp 0: Quốc hội, HĐND các cấp đến đơn vị dự toán cấp 1, cấp 2, cấp 3… đơn vị sử dụng NSNN. Hiện nay chỉ quản lý ở đơn vị dự toán trực tiếp sử dụng NSNN, tại KBNN nơi đơn vị giao dịch. Thống nhất phân bổ dự toán chi thường xuyên và chi đầu tư xây dựng cơ bản; Vốn nước ngoài cũng cân đối và phân bổ và giao dự toán. Cơ quan KBNN có tài khoản riêng để hạch toán và theo dõi dự toán tạm cấp trong trường hợp chưa có dự toán chính thức được giao.
Luật NSNN cần phải có những điều khoản quy định chặt chẽ tính thống nhất và công khai hoá trong quá trình lập, chấp hành và quyết toán NSNN. Đảm bảo cho Luật NSNN đề cao được quyền làm chủ của các đơn vị và cá nhân trong lĩnh vực tài chính – ngân sách. Luật NSNN phải tạo điều kiện cho mọi người dân nắm được một cách rõ ràng, chính xác, kịp thời những đóng góp của họ đã được sử dụng vào những mục đích gì, hiệu quả mang lại ra sao theo hướng dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Cần chú ý tính đồng bộ và kịp thời khi ban hành các bộ luật và các văn bản hướng dẫn dưới luật nhằm bảo đảm tính thống nhất cao và thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện; tạo điều kiện cho các cơ quan có chức năng kiểm tra, kiểm soát việc thi hành luật có căn cứ xử lý chính xác các vi phạm và có thể đưa ra các phán quyết đúng đắn nhất, thực sự đưa luật đi vào cuộc sống. Hiện nay ít nhất chúng ta có bẩy hình thức KSC thường xuyên NSNN, theo đó là bẩy cơ chế kiểm soát khác nhau, với quá nhiều văn bản, chế độ đi theo. Trong một đơn vị sử dụng NSNN cũng có nhiều hình thức KSC khác nhau. Do đó gây khó khăn cho đơn vị và cho KBNN trong quá trình thực hiện chi và KSC thường xuyên NSNN.
Đề nghị thống nhất lại thành 3loại chế độ KSC thường xuyên NSNN như sau: (i) Xây dựng cơ chế KSC thường xuyên thống nhất cho đơn vị không khoán, chi thường xuyên ngân sách đảng, chi ngân sách xã vào hình thức KSC không khoán. (ii) Tất cả các đơn vị khoán kinh phí từ NSNN xây dựng thống nhất một hình thức KSC và quản lý hình thức ngân sách khoán. (iii) Ngân sách quốc phòng và an ninh nên xây dựng thống nhất lại một hình thức KSC, hình thức này có tính chất chi đặc biệt, còn khoản nào không phải là chi đặc biệt thì theo hình thức KSC thường xuyên.
Hai là: Bổ sung, sửa đổi một số chế độ, chính sách của Nhà nước cho phù hợp với thực tiễn quản lý chi thường xuyên NSNN.
(i) Về quản lý, KSC thanh toán cá nhân, hiện nay chiếm tỷ trọng rất cao trong chi thường xuyên NSNN, tuy chi cao như vậy nhưng hiệu quả chưa được như mong đợi, bộ máy hành chính vẫn còn cồng kềnh và nhiều bất cập, đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy công quyền còn nhiều hạn chế, cơ chế tuyển dụng, đề bạt và sử dụng đội ngũ này còn nhiều bất cập. Do đó chúng ta phải sửa đổi chính sách tuyển dụng, sử dụng đội ngũ cán bộ công chức hưởng lương từ NSNN sao cho đảm bảo theo hướng: Tuyển dụng – đào tạo – và giữ được người giỏi để làm việc. Không để tình trạng công chức suốt đời. Đồng thời ta phải thay đổi căn bản chính sách tiền lương cho phù hợp với công việc, với trình độ chuyên môn. Nâng cao dịch vụ của hệ thống ngân hàng sao cho phục vụ được tất cả đội ngũ cán bộ công chức hưởng lương từ NSNN có thể mở được tài khoản ở ngân hàng từ đó rút lương và các khoản thu nhập và thanh toán bằng thẻ tại ngân hàng.
(ii) Về định mức chi tiêu: Chi sửa chữa lớn và nhỏ tài sản cố định. Hiện nay nội dung chi này KBNN chỉ kiểm soát theo hồ sơ chứng từ, do đó việc sửa chữa như thế nào, khi nào thì tài sản phải sửa chữa, cơ quan nào kiểm định tài sản cần phải sửa chữa cũng chưa có. Có cơ quan xây nhà chưa hết thời hạn bảo hành đã sửa chữa. Có loại xe ô tô mới mua một thời gian ngắn đã sửa chữa. Vì vậy đề nghị có quy định cụ thể từng loại tài sản dùng bao nhiêu năm, bao nhiêu giờ thì mới được sửa chữa, đồng thời quy định khi sửa chữa phải có cơ quan chuyên môn kiểm định tài sản cần sửa, khi đó mới được sửa chữa. Dự toán sửa chữa lớn phải được cơ quan có thẩm quyền thẩm định, và phải được tổ chức thầu theo quy định của Luật Đấu thầu. Chúng ta còn nhiều khoản chi chưa có định mức như chi kỷ niệm các ngày lễ lớn. Đề nghị nội dung chi này nên quy định chặt chẽ hơn theo hướng: Chỉ chi kỷ niệm các ngày lễ lớn ở cấp trung ương, hạn chế tổ chức kỷ niệm ở địa phương, được như vậy mỗi năm, nhất là những năm chẵn chúng ta có thể tiết kiệm nhiều trăm tỷ đồng cho NSNN, số tiền đó có thể xây dựng được nhiều lớp học mới. Khoản chi hỗ trợ: Nội dung chi này hàng năm tương đối lớn, nhưng lại không có quy định cụ thể, trường hợp nào được hỗ trợ, do đó KBNN rất khó kiểm soát. Đề nghị có quy định cụ thể các trường hợp được hỗ trợ của các đơn vị sử dụng NSNN, như vậy KBNN mới có căn cứ kiểm soát.
(iii) Về đơn vị khoán biên chế và kinh phí hoạt động. Hiện nay cơ chế khoán chưa đủ mạnh để đơn vị được khoán bung ra, khoán nhưng vẫn còn nhiều ràng buộc, chưa tạo điều kiện cho các đơn vị khoán khai thác khả năng của họ để phục vụ xã hội. Đề nghị nên mở rộng cơ chế khoán hơn nữa, cho đơn vị khoán có khả năng là có thể mở rộng dịch vụ phục vụ xã hội, nếu xã hội có nhu cầu và đơn vị có khả năng đáp ứng.
Ba là: Thực hiện cam kết chi đối với đơn vi sử dụng NSNN.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chế độ văn bản pháp lý (Nghị định của Chính phủ hoặc Thông tư của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện cam kết chi) quy định cụ thể việc thực hiện cam kết chi trên cơ sở dự toán được phân bổ theo từng đơn vị sử dụng NSNN nhằm đảm bảo dự toán ngân sách có đủ để chi tiêu trước khi bắt đầu việc mua sắm và dịch vụ, theo hướng sau: (i) Đơn vị sử dụng ngân sách thực hiện ký hợp đồng và chuẩn bị đầy đủ các thông tin hợp đồng, xác định rõ phạm vi cam kết phù hợp với yêu cầu quản lý gửi đến Kế toán viên Kho bạc Nhà nước để thực hiện tạo cam kết chi trong hệ thống. (ii) Sau khi nhập cam kết chi, hệ thống sẽ thực hiện việc kiểm tra dự toán của đơn vị còn đủ để thực hiện thanh toán cho hợp đồng không? (iii) Sau khi kiểm tra, nếu dự toán ngân sách còn đủ thì thực hiện phê duyệt cam kết chi trong hệ thống. Kho bạc Nhà nước thực hiện thông báo cho đơn vị sử dụng ngân sách. (iv) Sau khi cam kết chi được phê duyệt, hệ thống sẽ tự động giữ dự toán (trừ dự toán) để đảm bảo có đủ ngân sách cho việc thực hiện thanh toán đối với hợp đồng đã được cam kết chi.
Quản lý cam kết chi sẽ tạo ra một khối lượng công việc lớn cho KBNN và đơn vị sử dụng ngân sách, nhưng nếu thực hiện thành công sẽ phù hợp với chủ trương cải cách hành chính của Nhà nước ta hiện nay. Đồng thời chúng ta quản lý được nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ cho hệ thống các đơn vị sử dụng ngân sách, đây cũng là một trong những tiền đề quan trọng phục vụ cho công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN có hiệu quả.
Bốn là: Hoàn thiện các hình thức cấp phát NSNN theo hướng hạn chế tiến tới loại bỏ chi ngân sách bằng lệnh chi tiền.
Hình thức chi bằng lệnh chi tiền: Cần xác định rõ phạm vi và đối tượng sử dụng. Hình thức này chỉ nên áp dụng đối với một số khoản chi như cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức kinh tế – xã hội không có quan hệ thường xuyên với NSNN; chi trả nợ, viện trợ, một số khoản chi có tính đặc thù không thường xuyên, mang tính thời vụ và một số khoản chi khác theo quyết định của cơ quan tài chính. Còn lại ngân sách đảng, ngân sách xã, phường, thị trấn đều thực hiện hình thức rút dự toán chi NSNN. Hình thức kinh phí uỷ quyền: Đề nghị chuyển sang hình thức cấp phát theo dự toán bình thường.
Năm là: Có cơ chế đủ mạnh để thực hiện công khai hóa và minh bạch hóa chi tiêu của các đơn vị sử dụng NSNN.
Cơ chế thực hiện công khai, dân chủ tại các đơn vị sử dụng NSNN đã có nhưng việc thực thi lại chỉ ở mức độ nhất định, chưa có chế tài đủ mạnh bắt buộc đơn vị sử dụng NSNN phải công khai, minh bạch chi tiêu ngân sách tại đơn vị mình, đây cũng là một trong những nguyên nhân và khó khăn cho khâu kiểm soát của KBNN và hiệu quả của sử dụng NSNN có lúc chưa cao.
Thứ hai, Nhóm giải pháp quy trình và nghiệp vụ kiểm soát.
Một là: Áp dụng quy trình cấp phát Ngân sách nhà nước trực tiếp từ Kho bạc Nhà nước đến đối tượng sử dụng ngân sách. Đối với các khoản thanh toán từ NSNN cho đối tượng thụ hưởng từ NSNN là cá nhân như chi lương, phụ cấp lương, khoán công tác phí, tiền khoán chi điện thoại và các khoản thanh khác cho cá nhân, những đối tượng trên mở tài khoản ở các ngân hàng thương mại và được cung cấp dịch vụ thẻ. KBNN KSC đúng chế độ thực hiện chuyển tiền vào tài khoản ở ngân hàng cho các đối tượng đó, đối tượng hưởng đến rút tiền tự động tại máy rút tiền để chi tiêu hoặc thanh toán trực tiếp qua thẻ ATM. Được như vậy hàng năm KBNN Văn Giang sẽ giảm được lượng tiền mặt khá lớn mà không phải kiểm đếm khi rút từ ngân hàng về để chi cho các nội dung trên cho các đơn vị sử dụng NSNN, các đơn vị không phải bố trí thủ quỹ để rút tiền về chi lương. Như vậy sẽ rất tiết kiệm về nhân lực và tài lực cho KBNN nói riêng và tiết kiệm chí phí lưu thông cho xã hội nói chung.
Hai là: Áp dụng quy trình kiểm soát chi thường xuyên Ngân sách nhà nước theo kết quả đầu ra. Đây là một phương thức cấp phát NSNN tiên tiến, mới được áp dụng ở một số nước, hoặc một số khoản chi đặc biệt. Theo đó, Nhà nước không can thiệp vào việc sử dụng các khoản kinh phí NSNN đã cấp cho các cơ quan đơn vị, mà chỉ quan tâm đến hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó, tức là chỉ quan tâm đến kết quả đầu ra của các chương trình, mục tiêu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Theo phương thức cấp phát này, ngay từ khi lập dự toán, các cơ quan, đơn vị phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao; chỉ tiêu nhiệm vụ của năm kế hoạch; chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu; dự toán và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao của năm trước để xây dựng dự toán chi của năm kế hoạch. Sau khi được các cấp có thẩm quyền giao dự toán ngân sách năm, các cơ quan đơn vị dự toán cấp I tiến hành phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị thực hiện phương thức cấp phát NSNN theo kết quả đầu ra. Trên cơ sở dự toán chi cả năm được giao và nhiệm vụ phải chi trong quý, các đơn vị phải lập nhu cầu chi quý gửi cơ quan quản lý cấp trên và KBNN nơi mở tài khoản. Căn cứ nhu cầu chi hàng quý đã đăng ký và yêu cầu của nhiệm vụ chi, đơn vị dự toán lập giấy rút dự toán ngân sách gửi KBNN nơi giao dịch.
Căn cứ vào dự toán năm được giao và nhu cầu chi quý đã đăng ký, KBNN thực hiện trích chuyển kinh phí theo đề nghị của đơn vị. Thủ trưởng đơn vị được quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm về việc sử dụng kinh phí được cấp, bảo đảm thực hiện công việc theo đúng những cam kết ban đầu. Định kỳ, cơ quan tài chính phối hợp với cơ quan quản lý cấp trên của đơn vị theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Trường hợp phát hiện đơn vị không bảo đảm thực hiện công việc theo đúng cam kết, KBNN được phép tạm dừng cấp kinh phí cho đơn vị hoặc có biện pháp thu hồi phần kinh phí đã cấp. Như vậy, trong cơ chế kiểm soát chất lượng “đầu ra”, các ràng buộc bằng chế độ , tiêu chuẩn, định mức chi tiêu ở “đầu vào” đã được thay bởi các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả chất lượng “đầu ra”. Do đó, nó đã khắc phục được những hạn chế của cơ chế KSC theo “đầu vào”.
Tuy nhiên, muốn có một cơ chế kiểm soát như thế, trước hết nhà nước cần phải quy định các tiêu chuẩn hiệu quả đối với từng hình thức đơn vị sử dụng NSNN. Lẽ đương nhiên, những khoản chi tiêu thường xuyên của NSNN là những khoản chi gắn liền với việc thực hiện các chức năng của Nhà nước, tức là gắn liền với việc đáp ứng các nhu cầu chung, nhu cầu có tính chất toàn xã hội. Vì thế, hiệu quả của các khoản chi đó phải được xem xét dựa trên cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu kinh tế – xã hội nói chung. Đây thực sự là một vấn đề khó khăn, phức tạp trong quá trình triển khai áp dụng cơ chế này. Hơn thế, hiệu quả của việc quản lý và KSC thường xuyên NSNN không những chỉ đo được bằng các chỉ tiêu định lượng, mà còn phải xem xét cả bằng các chỉ tiêu định tính.
Ngoài ra, một vấn đề nữa cũng cần phải tính đến là khi giao toàn bộ trách nhiệm quản lý tài chính cho Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, rồi sau đó mới xem xét hiệu quả của việc sử dụng số kinh phí đó, sẽ rất dễ phát sinh trường hợp những nhà quản lý có thể lạm dụng số tiền tiết kiệm được trong quá trình sử dụng kinh phí được cấp để mưu lợi cho cá nhân hoặc chi tiêu lãng phí, gây thất thoát tiền, tài sản của Nhà nước, trong lúc không bảo đảm được số lượng, chất lượng công việc đã cam kết. Vì vậy trước mắt chỉ nên áp dụng phương thức cấp phát NSNN theo “kết quả đầu ra” đối với một số khoản chi cho các dịch vụ công cộng như an ninh trật tự, chống các tệ nạn xã hội, các chương trình giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường.
Ba là: Công khai hóa tại Kho bạc Nhà nước cơ chế quản lý, điều hành kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN theo tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001. KBNN Văn Giang đã xây dựng quy trình giao dịch, công khai các bước giao dịch của KBNN với khách hàng.
Về công tác KSC thường xuyên NSNN, như đã trình bày ở trên, việc KSC phải căn cứ vào nhiều văn bản chế độ khác nhau cho mỗi khoản chi. Do đó mọi khoản chi KBNN phải công khai các văn bản áp dụng, chế độ tiêu chuẩn định mức chi tiêu, hồ sơ thủ tục đấu thầu, chỉ định thầu theo quy định… Tất cả các nội dung trên phải thực hiện công khai tại địa điểm giao dịch của KBNN để cán bộ KBNN và khách hàng cùng nghiên cứu và thực hiện theo tiếng nói chung, đó cũng là một khâu minh bạch trong KSC thường xuyên NSNN của KBNN Văn Giang.
Thứ ba, Nhóm giải pháp về chất lượng nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là yếu tố then chốt, bởi con người là nhân tố cơ bản, có tính quyết định trực tiếp đến việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của KBNN, tiến tới xây dựng KBNN trở thành Kho bạc điện tử. Như vậy phát triển nguồn nhân lực là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng, cần thiết có chiến lược và kế hoạch dài hạn đáp ứng yêu cầu phát triển.Trước thực trạng về chất lượng nguồn nhân lực hiện nay của hệ thống KBNN và yêu cầu cấp thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để thực hiên chiến lược phát triển hệ thống KBNN phù hợp với công cuộc cải cách hành chính(CCHC) Nhà nước nói chung và của toàn ngành tài chính nói riêng
Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ KBNN làm công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN theo hướng: Chuyên môn hoá và tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ KBNN, đặc biệt là những cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ KSC thường xuyên NSNN, cần nắm vững tình hình kinh tế – xã hội của địa phương và các chính sách chế độ của nhà nước, thường xuyên rèn luyện tư cách, đạo đức và đề cao tinh thần trách nhiệm trong công tác. Tạo điều kiện cho cán bộ cập nhật những văn bản chế độ, chính sách mới về chi thường xuyên NSNN, tạo điều kiện cho họ bằng cách cung cấp các văn bản chế độ, tập huấn triển khai văn bản chế độ mới, thường xuyên truy cập internet. Cần có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh. Thực hiện chế độ khen thưởng hợp lý, linh hoạt, dưới nhiều hình thức, nhằm tạo ra động lực kích thích mọi cán bộ công chức hăng say làm việc, phát huy tối đa trình độ, năng lực của mỗi người.
Thứ tư, Nhóm giải pháp phân công đầu mối tại KBNN thực hiện công tác KSC thường xuyên NSNN tại KBNN
Việc phân công nhiệm vụ là đầu mối KSC thường xuyên NSNN của KBNN. Hiện nay KBNN Văn Giang phân công hai đầu mối thực hiện KSC thường xuyên NSNN: Đó là bộ phận kế toán và bộ phận kế hoạch. Phân công như vậy sẽ gây chồng chéo trong khâu kiểm soát, không thuận lợi cho công tác đối chiếu với khách hàng và không tạo điều kiện tốt nhất cho khách hàng. Cùng một hình thức kinh phí nhưng lại hai bộ phận khác nhau kiểm soát chi. Vì vậy nên thống nhất lại một đầu mối thực hiện KSC thường xuyên NSNN tại KBNN, đó là bộ phận kế toán KBNN .
Thứ năm, Nhóm giải pháp có liên quan đến vấn đề hiện đại hóa KBNN.
Đẩy nhanh tiến trình hiện đại hoá công nghệ KBNN: Hiện đại hoá công nghệ KBNN là một trong những điều kiện hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động của KBNN nói chung và cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN nói riêng. Vì vậy, vấn đề trọng tâm và có ý nghĩa cấp bách là phải xây dựng được hệ thống mạng thông tin nhanh nhạy, ổn định từ trung ương đến cơ sở, đủ sức truyền tải mọi thông tin hoạt động cần thiết, phục vụ công tác quản lý, điều hành, nhất là trong điều kiện thực hiện chế độ kế toán TABMIS như hiện nay.
Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của KBNN: Sự phát triển công nghệ thanh toán của nền kinh tế, trong đó có công nghệ thanh toán của KBNN có tác động trực tiếp đến hiệu quả sử dụng các nguồn vốn của nền kinh tế nói chung và công tác điều hành NSNN nói riêng. Tồn tại lớn nhất hiện nay là khối lượng tiền mặt chu chuyển thanh toán còn quá lớn, gây nhiều lãng phí cho xã hội và là mầm mống của tiêu cực. Nhà nước cần kiên quyết chấn chỉnh và ban hành ngay chế độ thanh toán không dùng tiền mặt, quy định rõ đối tượng, phạm vi, nguyên tắc, định mức sử dụng tiền mặt. Điều này không những có ý nghĩa giảm bớt chi phí lưu thông tiền tệ cho nền kinh tế, mà còn tạo khả năng cho KBNN thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN trong các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách.
Kiến nghị, đề xuất
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN nói chung và KBNN Văn Giang nói riêng là một trong những vấn đề rất cần thiết và quan trọng góp phần sử dụng hiệu quả, đúng mục đích NSNN. Đồng thời làm lành mạnh nền tài chính, nâng cao tính công khai, minh bạch, dân chủ trong việc sử dụng nguồn lực tài chính quốc gia nói chung và NSNN nói riêng, đáp ứng được nhu cầu trong quá trình đổi mới chính sách tài chính của nước ta khi hội nhập với nền kinh khu vực và
thế giới.
Trên cơ sở khảo sát thực tế, thống kê, tổng hợp và phân tích, đề tài đã đánh giá được thực trạng về công tác KSC thường xuyên NSNN cũng như kết quả thực hiện công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN Văn Giang, thấy được những thành tựu đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế và tìm ra nguyên nhân của những tồn tại. Từ đó, đề tài nêu quan điểm hoàn thiện KSC thường xuyên NSNN qua KBNN Văn Giang. Đồng thời đưa ra các nhóm giải pháp, bao gồm cơ chế và quy trình có tính chất đổi mới cả về phương thức và cách làm trong việc KSC thường xuyên NSNN; đề xuất các điều kiện cần thiết chủ yếu có liên quan đến các cấp, các ngành và cho chính bản thân hệ thống KBNN để thực hiện có hiệu quả công tác KSC thường xuyên NSNN qua hệ thống KBNN trong thời kỳ tiếp theo.
Công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, động chạm trực tiếp tới quyền lợi cũng như tư duy, cách làm của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị có sử dụng NSNN trên phạm vi toàn quốc, đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu công phu, toàn diện. Các giải pháp phải có tính hệ thống và xuyên suốt, cần phải có sự sửa đổi, bổ sung từ các văn bản luật đến các văn bản hướng dẫn thực hiện của các bộ, ngành và địa phương. Tác giả hy vọng đề tài này sẽ là cơ sở tham khảo để KBNN tiếp tục hoàn thiện hơn nữa công tác KSC thường xuyên NSNN trong thời gian tới.
Nguyễn Thanh Hiệp