27 C
Hanoi
Thứ Bảy, 31 Tháng 5, 2025

Hạ tầng thoát nước đô thị vùng Đồng bằng sông Cửu Long, dưới tác động của biến đổi khí hậu

PGS. TS Nguyễn Hồng Tiến1,2,*Huỳnh Trọng Nhân 3

1 Nguyên Cục trưởng Cục Hạ tầng; 2 Bộ Xây dựng.

3 Trưởng Bộ môn QLĐT, trường ĐH Xây dựng miền Tây.

*Email: nhtien57@yahoo.com.vn

Nhận bài: ngày 15/10/2024; Hoàn thiện ngày 10/02/2025; Chấp nhận ngày 25/3/2025; Xuất bản ngày 25/04/2025

——————-

Tóm tắt: Ðồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) đang chịu tác động tiêu cực của quá trình biến đổi khí hậu (BÐKH). Hạn hán, xâm nhập mặn, đất lở, đường trôi, sụt lún, ngập úng …  là những tác động đã và đang trở thành hiện thực từng ngày đe dọa vùng ĐBSCL. Các đô thị của Việt Nam nói chung và đặc biệt là tại Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng đã và đang đối mặt với ngập úng gia tăng mà một trong những nguyên nhân chính là tốc độ đô thị hóa nhanh và tác động của BĐKH.

Khái quát về hệ thống đô thị và phân bố đô thị, những tác động cơ bản của BĐKH đến hoạt động thoát nước và chống ngập, khả năng thích ứng của hệ thống thoát nước hiện tại của các đô thị vùng ĐBSCL, trên cơ sở kinh nghiệm và bài học trong việc tổ chức triển khai Chương trình thoát nước và chống ngập đô thị ứng phó với BĐKH của GIZ tại Vùng ĐBSCL nhóm nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp đổi mới quản lý hoạt động thoát nước và chống ngập úng cho các đô thị vùng này.

—————————

Urban drainage infrastructure in the Mekong Delta region, under the impact of climate change

Associate Professor, Dr. Nguyen Hong Tien1,2,*; Huynh Trong Nhan 3

1 Former Director of the Department of Infrastructure; 2 Ministry of Construction.

3 Head of the Department of Urban Management, Western University of Construction.

*Email: nhtien57@yahoo.com.vn

Abstract: The Mekong Delta (MD) is suffering from the negative impacts of climate change (CC). Drought, salinity intrusion, landslides, road erosion, subsidence, flooding… are impacts that have become a reality every day, threatening the MD. Urban areas in Vietnam in general and in the MD in particular have been facing increasing flooding, one of the main causes of which is the rapid urbanization and the impact of CC.

Overview of the urban system and urban distribution, the basic impacts of climate change on drainage and flood control activities, the adaptability of the current drainage system of urban areas in the Mekong Delta, based on experience and lessons learned in organizing and implementing the GIZ Urban Drainage and Flood Control Program to Respond to Climate Change in the Mekong Delta, the research team proposed a number of innovative solutions for managing drainage and flood control activities for urban areas in this region.

—————————————————–

  1. Hệ thống đô thị và phân bố đô thị tại vùng ĐBSCL

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng cực nam của Việt Nam, còn được gọi là Vùng đồng bằng sông Mekong, với 13 tỉnh, thành phố là: Cần Thơ, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2019, ĐBSCL có tổng diện tích là 40.816,4 km² và dân số toàn vùng là 17.282.500 người [1]. Về vị trí địa lý, đồng bằng sông Cửu Long nằm liền kề vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan, phía Đông Nam là Biển Đông (Hình 1).

Vị trí địa lý của Đồng bằng sông Cửu Long

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long là vùng rộng lớn, tập trung đông dân cư , có tiềm năng, thế mạnh về phát triển nông nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, hải sản lớn nhất cả nước. Kinh tế nông nghiệp đóng góp 34,6% GDP ngành nông nghiệp bao gồm: Lúa chiếm hơn 50% diện và sản lượng, đóng góp 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước; Nuôi trồng thủy, hải sản cung cấp trên 42% sản lượng thủy sản đánh bắt và gần 67% sản lượng thủy sản nuôi trồng, xuất kẩu thủy sản chiếm 60% sản lượng cả nước…Theo Cục Phát triển đô thị đến tháng 12 năm 2020, vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 174 đô thị trong đó: 1 đô thị loại I trực thuộc trung ương (Cần Thơ), 2 đô thị loại I trực thuộc tỉnh Mỹ Tho (Tiền Giang) và Long Xuyên (An Giang), 12 đô thị loại II, 9 đô thị loại III, 23 đô thị loại IV và 127 đô thị loại V [2]. Trong quy hoạch đô thị của mỗi địa phương, các đô thị tỉnh lỵ vùng ĐBSCL đều giữ vai trò là đô thị hạt nhân của tỉnh, là động lực phát triển kinh tế, xã hội trong vùng tỉnh. Đặc biệt trong Quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL theo Quyết định số 68/QĐ-TTg, các đô thị tỉnh lỵ này được định hướng phát triển thành mạng lưới đô thị gắn với phát triển các khu công nghiệp, các trung tâm thương mại, dịch vụ  tạo mạng lưới liên kết chặt chẽ trong vùng ĐBSCL [4].

Bảng 1 Tổng hợp các đặc điểm chung của đô thị tỉnh lỵ vùng Đồng bằng sông Cửu Long

STT Tên đô thị tỉnh lỵ Trực thuộc Phân vùng * Loại đô thị Dân số ** (người) Diện tích (km²) Mật độ dân số (người/km²)
1 Cần Thơ Trung ương Tiểu vùng đồng bằng Loại I 1.235.171 1439,2 885
2 Mỹ Tho Tiền Giang Tiểu vùng đồng bằng, vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam Loại I 228.109 81,54 2.798
3 Tân An Long An Loại II 145.120 81,94 1.771
4 Long Xuyên An Giang Tiểu vùng đồng bằng Loại I 272.365 114,96 2.369
5 Vĩnh Long Vĩnh Long Loại II 137.870 47,82 2.883
6 Cao Lãnh Đồng Tháp Loại II 164.835 107,00 1.541
7 Vị Thanh Hậu Giang Loại II 73.322 118,67 618
8 Rạch Giá Kiên Giang Tiểu vùng ven biển, khu vực biển Tây Loại II 227.527 105 2.167
9 Cà Mau Cà Mau Loại II 226.372 249,29 908
10 Bạc Liêu Bạc Liêu Tiểu vùng ven biển, khu vực biển Đông Loại II 156.284 213,80 731
11 Sóc Trăng Sóc Trăng Loại III 137.305 76,15 1.803
12 Trà Vinh Trà Vinh Loại II 112.584 68,03 1.655
13 Bến Tre Bến Tre Loại II 124.499 71,10 1.751

(*: dựa trên QĐ 68/QĐ-TTg  **: dựa trên Kết quả điều tra GSO năm 2019 [1])

Với mạng lưới sông, kênh, rạch dày đặc và đặc điểm định cư “Nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ”, hệ thống đô thị của vùng phân bố theo mô hình phân tán quy mô vừa và nhỏ, cấu trúc dân cư nông nghiệp trải đều và hầu hết gắn liền với sông, kênh, rạch hoặc giao điểm giữa đường bộ và đường sông. Hệ thống các đô thị – trung tâm đô thị ba cấp phân bố đều theo kiểu tầng bậc với 1 thành phố là trung tâm cấp vùng, quốc gia; 12 thành phố trung tâm tỉnh lỵ và bố trí cách đều nhau từ 60 – 80km; 17 thành phố, thị xã là trung tâm cấp khu vực và còn lại là trung tâm cấp huyện và cụm xã. Nhìn chung hệ thống đô thị hiện hữu về cơ bản đảm bảo chức năng cung cấp dịch vụ hành chính cơ bản của địa phương.

Hệ thống các đô thị trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long [3]
(*: dựa trên QĐ 68/QĐ-TTg [5]; **: dựa trên Kết quả điều tra GSO năm 2019 [1])

Tuy nhiên, mạng lưới đô thị tuy bắt đầu hình thành theo định hướng không gian đô thị toàn vùng nhưng liên kết giữa các đô thị trong vùng chưa đồng đều và chặt chẽ. Các dự án công trình đầu mối hạ tầng khung của vùng chưa được đầu tư đồng bộ dẫn đến hiệu quả tính liên kết còn nhiều hạn chế, theo đánh giá của Royal Haskoning [3], phần lớn các đô thị tỉnh lỵ của vùng ĐBSCL đều là các đô thị chỉnh trang mở rộng, hay nâng cấp từ một thị trấn cũ. Tỷ lệ đô thị hóa và tốc độ đô thị hóa của vùng vẫn thấp hơn nhiều so với trung bình toàn quốc. Nhiều đô thị chưa tạo ra sự đột phá cho nền kinh tế địa phương một cách rõ nét.

  1. Tác động của Biến đổi khí hậu đến hạ tầng thoát nước đô thị vùng ĐBSCL

Đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá là khu vực bị tác động nặng nề nhất trong 5 khu vực gánh chịu hậu quả trầm trọng nhất do biến đổi khí hậu của thế giới. Do địa hình thấp so với mực nước biển, nằm ở hạ lưu sông Mê Kông, tiếp giáp với biển, nên Đồng bằng sông Cửu Long phải đối mặt với nhiều tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu và sự thay đổi lưu lượng dòng chảy của sông Mê Kông. Đối với các đô thị ở Đồng bằng sông Cửu Long, 3 hệ thống bị tác động nặng nề do biến đổi khí hậu là: hệ thống nước (cấp và thoát nước); hệ thống an ninh lương thực và hệ thống năng lượng. Những thay đổi về chế độ mưa và các hiện tượng thời tiết cực đoan sẽ dẫn tới tăng tần suất và mức độ nghiêm trọng của lũ lụt ở những khu vực có lượng mưa gia tăng. Phát triển đô thị nhanh đã làm giảm tỉ lệ diện tích bề mặt có khả năng thấm nước do bê tông hóa; suy giảm diện tích mặt nước do san lấp, lấn chiếm hoặc xả thải cũng làm giảm khả năng trữ nước mưa và làm tăng nguy cơ ngập úng tại các đô thị. Ngoài ra nó còn ảnh hưởng đến hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đô thị như: Giảm khả năng tiêu thoát nước, gây quá tải đối với hệ thống thoát nước và xử lý nước thải; thay đổi không gian mặt nước, công viên cây xanh, quảng trường; phá hỏng kết cấu hạ tầng đô thị (nhà ở, trường, trạm, đường giao thông, các công trình đầu mối khác); ảnh hưởng tới việc sử dụng không gian ngầm đô thị. Do tác động của biến đổi khí hậu, thời tiết, thiên tai diễn biến thất thường, phức tạp, gây ảnh hưởng và thiệt hại nặng nề cho con người. Trước đây, Đồng bằng sông Cửu Long ít bị bão, cơn bão Linda (1997) và đuôi bão Durion (2006) đã quét qua khu vực này gây thiệt hại nặng nề về người và của. Từ năm 2010 đến nay, tổng lượng nước trên sông Cửu Long chỉ bằng 30% so với những năm lũ lớn, bằng 60-70% so với những năm lũ trung bình [6]. Trong khi đó, triều cường lại dâng cao khiến nhiều đô thị và khu dân cư tập trung bị ngập sâu hơn trong nước. Trong 10 năm qua, ở ĐBSCL với các năm 2000, 2001, 2002, 2011 có lũ lớn, 5 năm liên tiếp sau đó có lũ dưới trung bình, có 4 năm liền ĐBSCL gặp hạn, đặc biệt hạn kết hợp dòng chảy kiệt trên sông Mê Kông vào năm 2004 [7] và các năm gần đây (2016, 2019-2020). Thời tiết ở Đồng bằng sông Cửu Long đã có những dấu hiệu thất thường do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trong những năm gần đây. Mùa khô thường đến sớm và kéo dài, gây ra hạn hán gay gắt trên diện rộng. Về chế độ thủy văn vào mùa mưa, mực nước dâng cao gây ngập trên diện rộng gây thiệt hại nặng nề, đôi khi nước ngập xảy ra ngay trong mùa khô gây trở ngại trong sản xuất, sinh hoạt của người dân sống ngoài vùng đê bao. Theo số liệu của các Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn, mực nước sông, rạch trên tăng lên hàng năm do nước biển có xu thế ngày càng dâng cao. Cuối năm 2011, mực nước sông Tiền tại trạm Mỹ Thuận lên mức xấp xỉ 2m. Ở nội đồng, mực nước sông rạch lên cao nhất trong chuỗi quan trắc nhiều năm của Trung tâm, đạt mức từ 1,75 – 1,78m. Triều cường trên nền nước biển dâng ngày càng uy hiếp các vùng đất thấp, đặc biệt là các TP như Cần Thơ, Cà Mau, Vĩnh Long [7].

Dự báo ngập lụt ở của vùng theo Quy hoạch tổng thể thuỷ lợi vùng ĐBSCL [9]
Theo kịch bản quốc gia về biến đổi khí hậu ở Việt Nam [8] thì cuối thế kỷ này khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nhiệt độ trung bình có thể tăng 1,3°C tới 2,8°C, mưa có thể tăng 4 đến 8%, và nước biển dâng theo kịch bản thấp là 66cm, cao là 99cm. Nước biển dâng 1m có thể làm 39% diện tích ở Đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ bị ngập, 35% dân số trong vùng sẽ bị ảnh hưởng. Các đô thị Sa Đéc, Vĩnh Long, Tân An, Mỹ Tho, Cần Thơ, Vị Thanh, Sóc Trăng, Rạch Giá và Hà Tiên dự báo sẽ bị ngập trên 1,0m, trong đó nghiêm trọng nhất là 2 thành phố Long Xuyên và Cao Lãnh

Những tác động hiện tại và tương lai của biến đổi khí hậu đối với hạ tầng thoát nước và các hoạt động khác có liên quan được đánh giá, tổng hợp tại Bảng 3. Trong đó, hạ tầng thoát nước bao gồm các thành phần: Nguồn thải, nguồn tiếp nhận, mạng lưới, các công trình đầu mối và các hoạt động khác bao gồm: xây dựng, vận hành, quan trắc. Khả năng bị tác động được đánh giá theo 4 mức độ: không ảnh hưởng; ảnh hưởng nhẹ; ảnh hưởng nghiêm trọng; ảnh hưởng có thiệt hại nặng nề theo thang màu ghi chú bảng 3.

Bảng 3: Đánh giá tác động của BĐKH đến hạ tầng thoát nước đô thị và các hoạt động khác có liên quan

Tác động do biến đổi khí hậu Hạ tầng thoát nước đô thị và các hoạt động khác có liên quan
Nguồn thải Nguồn tiếp  nhận Mạng lưới Công trình đầu mối Xây dựng Vận hành Quan trắc
Nước biển dâng              
Sóng bão từ              
Xâm nhập mặn              
Lũ lụt              
Bão, mưa lớn              
Nhiệt cực đoan              
Hạn hán              
               
  Không ảnh hưởng   Ảnh hưởng nhẹ   Ảnh hưởng nghiêm trọng   Ảnh hưởng thiệt hại
  1. Thoát nước và ngập úng tại các đô thị tỉnh lỵ vùng ĐBSCL

Theo đánh giá của Viện Quy hoạch xây dựng miền Nam, đặc điểm chung của các đô thị thuộc ĐBSCL là có địa hình bằng phẳng, cao độ thấp so với mực nước của các sông rạch, vì vậy khó khăn cho việc thoát nước [5]. Khi có lũ trên hệ thống sông Mekong, hầu hết các đô thị bị ngập úng trên diện rộng trong thời gian dài. Khi có mưa, mặc dù không có lũ trên kênh, rạch, mức nước sông không cao, nhưng nhiều khu vực tại các đô thị vẫn úng ngập, do chưa có hoặc thiếu cống thoát nước. Đặc biệt những khu vực trũng thấp tại các đô thị, ngay cả khi không mưa, nhưng khi triều cường, nước từ kênh, rạch tràn vào cũng làm úng ngập. Trong đánh giá của UN-Habitat, hệ thống thoát nước mưa hiện hữu của các đô thị trong vùng nhìn chung chưa đảm bảo cho việc thoát nước của các đô thị [10]. Các tuyến thoát nước chủ yếu tập trung tại các khu trung tâm của đô thị, được xây dựng đã nhiều năm, nhiều thời kỳ khác nhau nên thường có hiện tượng chắp vá thiếu đồng bộ và bị xuống cấp nhiều, do đó vẫn còn hiện tượng gây úng ngập cục bộ khi trời mưa. Các khu vực đô thị mới phát triển tuy đã chú trọng đến việc xây dựng hệ thống thoát nước mưa nhưng vẫn còn chưa đạt được hiệu quả cao do xây dựng manh mún, không có quy hoạch tổng thể toàn bộ mạng lưới của đô thị. Hiện tại tất cả các đô thị đều sử dụng hệ thống thoát nước chung nước mưa và nước bẩn, do đó không đảm bảo điều kiện vệ sinh môi trường.

Bên cạnh đó, thách thức nghiêm trọng với các đô thị trong vùng là áp lực của quá trình đô thị hóa và thay đổi bề mặt đô thị. Quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị  đã làm gia tăng bề mặt không thấm nước, lấn chiếm các kênh rạch tự nhiên, làm thay đổi dòng tuần hoàn nước của tự nhiên. Hệ thống thoát nước phải đáp ứng một lưu lượng lớn nước mưa, cùng với việc tổ chức không gian đô thị trong quy hoạch đô thị không hợp lý, việc bê tông hóa mặt phủ của đô thị đã không cho nước mưa bổ cập trở lại nguồn nước ngầm đồng thời cùng với các hoạt động khai thác nước ngầm phục vụ sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp ở các vùng xung quanh đô thị đã góp phần làm cho mực nước ngầm suy giảm nghiêm trọng hơn, với tốc độ từ 40-70cm/năm. Điều này cũng dẫn đến hệ lụy là nền đất bị sụt lún từ 1-3cm/năm, các đô thị bị ảnh hưởng lớn là Cà Mau, Bạc Liêu, Vị Thanh, Mỹ Tho [11].

Hình ảnh ngập úng cục bộ tại các đô thị tỉnh lỵ vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Về đặc điểm ngập lụt tại Đồng bằng sông Cửu Long, nguyên nhân được xác định do nhiều yếu tố như: lũ thượng nguồn, điều tiết của Biển Hồ, cơ sở hạ tầng, thủy triều và các biện pháp công trình phòng tránh lũ với tỷ lệ đóng góp khác nhau gây ra. Việc xác định độ ngập sâu chủ yếu dựa vào quan hệ giữa mực nước lũ và cao trình mặt đất ở vùng ngập và sự lan truyền của lũ vào trong vùng. Trong các trận lũ lớn, yếu tố lan truyền lũ đóng vai trò không đáng kể. Các công trình ở nội đồng như đường xá, cầu cống, hệ thống đê bao, kênh, khu dân cư,… thường làm thay đổi độ sâu, diện ngập và thời gian ngập. Theo nghiên cứu thu thập tài liệu, hằng năm vào mùa mưa, từ tháng 9 đến tháng 11 nhiều thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập úng do mưa và triều cường như Hình 4. Những vùng ngập do mưa là các vùng đất thấp, nằm giáp ranh giữa vùng ngập do lũ và vùng bị tác động của triều, cao trình mặt đất thường chỉ từ 0,2 – 0,6 m, tiêu thoát nước kém.

  1. Kết cấu hạ tầng thoát nước, chống ngập úng tại các đô thị vùng ĐBSCL

Theo khảo sát và đánh giá, hệ thống các công trình thoát nước tại các đô thị tỉnh lỵ đều là hệ thống thoát nước chung hoặc hỗn hợp, nhưng chưa được xử lý cuối nguồn. Nước thải xả trực tiếp ra sông hoặc kênh rạch tại các cửa xả tuyến cống, gây ô nhiễm vệ sinh môi trường sống của cộng đồng dân cư xung quanh. Mạng lưới thoát nước không được đầu tư xây dựng đồng bộ, mà chủ yếu là được xây dựng theo các dự án đường giao thông riêng lẻ. Vì vậy, các công trình trên mạng lưới không cùng thông số kỹ thuật như: kích thước hố ga, kích thước cống rãnh, quy cách đấu nối. Một số mạng lưới đấu nối dạng lưới, không theo lưu vực nên gây mất ổn định thủy lực của hệ thống, các tuyến cống vận hành không đúng với thiết kế ban đầu .Về quy mô công trình thoát nước, hiện tại tổng chiều dài 1.056km, mật độ mạng lưới cống rãnh từ 0,33-1,25km/km2 , trung bình đạt 0,68km/km2. Có 5/13 đô thị có nhà máy xử lý nước thải (Long Xuyên, Cao Lãnh, Sóc Trăng, Trà Vinh và Cần Thơ) với tổng công suất khoảng 102.000m3/ngđ. Nhiều đô thị khác cũng đang xây dựng các công trình xử lý nước thải.Các số liệu cơ bản về hệ thống thoát nước các đô thị tỉnh lỵ được thể hiện ở bảng 2.

Bảng 2 Thống kê một số dữ liệu cơ bản của hệ thống công trình thoát nước và Xử lý nước thải tại các đô thị tỉnh lỵ vùng ĐBSCL

STT Tên đô thị Diện tích (km²) Đặc điểm HTTN Chiều dài cống, rãnh thoát nước (km) Mật độ cống rãnh thoát nước (km/km2) Công suất nhà máy XLNT (m3/nđ) Tỷ lệ diện tích mặt nước (%) Cao độ trung bình Cốt khống chế (QHC)
1 Mỹ Tho 81.54 Chung 90.1 1.11 15.43 1.6-1.8 1.76
2 Tân An 81.94 Chung 73.1 0.89 1.0-1.6
3 Long Xuyên 114.96 Hỗn hợp 104.2 0.91 30.000 12.83 1.0-2.5 3.00
4 Vĩnh Long 47.82 Chung 37.1 0.78 15.14 1.0-1.5 2.45
5 Cao Lãnh 107.00 Hỗn hợp 54.0 0.50 10.000 17.74 0.8-1.5
6 Vị Thanh 118.67 Chung 39.0 0.33 5.14 1.2-1.5 1.30
7 Rạch Giá 105.00 Chung 122.3 1.16 3.69 1.1-2.0 1.50
8 Cà Mau 249.29 Chung 118.0 0.47 5.11 0.5-1.8 1.51
9 Bạc Liêu 213.80 Chung 46.9 0.22 12.19 0.8-1.2 2.20
10 Sóc Trăng 76.15 Hỗn hợp 72.7 0.95 13.180 1.50 1.2-1.3 1.80
11 Trà Vinh 68.03 Hỗn hợp 84.8 1.25 18.000 21.40 1.2-2.0 2.40
12 Bến Tre 71.10 Hỗn hợp 66.2 0.93 10.70 0.9-1.6 2.25
13 Cần Thơ 1439.2 Hỗn hợp 148 0,10 30.000 5.34 1.8-3.0 >2.50
        1.056   102.000      

(Nguồn do tác giả khảo sát và tổng hợp từ nhiều nguồn)

Như vậy có thể thấy hệ thống thoát nước đô thị tỉnh lỵ vùng ĐBSCL còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu thoát nước và chống ngập hiện nay cũng như nhu cầu phát triển đô thị và đô thị hóa trong tương lai, mặc dù các đô thị tỉnh lỵ trong vùng này có nhiều điều kiện thuận lợi với mạng lưới sông, kênh, rạch dày đặc, thuận lợi cho việc thoát nước mặt đô thị với đường tiêu ngắn, dễ dàng thoát nước từ nội đô một cách nhanh chóng nhưng hạn chế là thủy triều tràn sâu vào nội địa lại ngăn chặn dòng chảy của nước mưa thoát ra, nhiều mương rạch, ao hồ trong đô thị đang bị lấn chiếm, thu hẹp dần đồng thời mương, rạch lại là nơi xả rác thải, trong nhiều năm việc nạo vét bùn thải, thu dọn chất thải không được thực hiện nên không những gây ra tắc nghẽn, hạn chế khả năng tiêu thoát mà còn là nơi gây ô nhiễm vệ sinh môi trường xung quanh.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng xây dựng và phát triển hạ tầng thoát nước, các tác động của biến đổi khí hậu cũng như dự báo về biến đổi khí hậu trong những năm tới một số giải pháp được đề xuất như sau:

  1. Tăng cường khả năng thích ứng về ngập úng của các đô thị
  • Tăng cường khả năng thích ứng thoát nước và ngập úng đô thị trước tiên phải xuất phát từ Quy hoạch đô thị (QHĐT) bởi vì QHĐT là công cụ quan trọng trong ứng phó với BĐKH, QHĐT có tầm bao quát lớn và tính tổng hợp, tính liên ngành cao và có các giải pháp có tính tổng thể, dài hạn [12]. Tích hợp/lồng ghép các nội dung ứng phó BĐKH trong QHĐT và các chương trình, kế hoạch phát triển đô thị….Nâng cao chất lượng của QHĐT/ Điều chỉnh QHĐT hiện nay các địa phương đang triển khai việc tổ chức không gian đô thị/phân khu chức năng cần có sự phối hợp chặt chẽ với tổ chức thoát nước và chống ngập cho đô thị, các giải pháp quy hoạch thoát nước và chống ngập cần cụ thể thông qua đó sẽ giúp chính quyền đô thị nâng cao khả năng thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH và thiên tai.
  • Quản lý thoát nước và ngập úng đô thị không phụ thuộc ranh giới hành chính đô thị mà quản lý với quy mô vùng rộng lớn hơn trong đó phải có sự kết nối/liên kết chặt chẽ với hệ thống thủy lợi. Quản lý thoát nước cần phải tiếp cận theo hướng quản lý lưu vực sông.
  • Triển khai có hiệu quả các quy định của pháp luật có liên quan đến thoát nước và ngập úng đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu bao gồm: (i) Cụ thể hóa các định hướng, chiến lược, chương trình, đề án của Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế và xã hội mỗi đô thị trong vùng; (ii) Kế hoạch từng bước thực hiện Quy hoạch đô thị và quy hoạch thoát nước đã được phê duyệt trong đó làm rõ thứ tự ưu tiên các dự án đầu tư ưu tiên, huy động các nguồn vốn, lựa chọn nhà đầu tư có năng lực về tài chính và kỹ thuật.
  • Phải xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu về thoát nước (điều kiện tự nhiên, tài nguyên, các thông số kỹ thuật của hệ thống thoát nước, bản đồ ngập úng, bản đồ cảnh báo rủi ro BĐKH, các tác động của BĐKH đến hệ thống thoát nước…) và quản lý các dữ liệu lớn.
  • Áp dụng các công nghệ tiên tiến, công nghệ thông minh trong quản lý các hoạt động thoát nước và chống ngập đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu.

2. Tiếp cận thoát nước theo hướng bền vững

  • Một trong những mô hình thoát nước theo hướng bền vững (Sustainable Urban Drainage System – SUDS) là hướng tới việc duy trì đặc thù tự nhiên của dòng chảy về dung lượng, cường độ và chất lượng; kiểm soát tối đa dòng chảy từ nguồn, giảm thiểu tối đa tại các khu vực tiêu thoát nước trực tiếp, lưu giữ nước tại chỗ và cho thấm xuống đất, đồng thời kiểm soát ô nhiễm. Cách tiếp cận của thoát nước mưa theo hướng bền vững là thoát chậm, không phải thoát nhanh, để tránh lượng mưa tập trung lớn trong thời gian ngắn. Tiết diện cống sẽ khó có thể đáp ứng nếu lượng mưa lớn, tốn kém chi phí mà nước vẫn tràn cống, gây ngập úng. Vì vậy, việc tổ chức thoát nước mưa, kết hợp các biện pháp khác nhau phải đồng bộ, sao cho dòng chảy được tập trung chậm. Sử dụng các hồ điều hòa trên diện tích thu gom và truyền dẫn nước mưa để lưu giữ nước là một cách làm phổ biến. Bên cạnh đó, sử dụng diện tích bề mặt của thành phố nhằm tăng cường việc cho nước mưa thấm tự nhiên xuống đất qua các thảm cỏ xanh, đồng thời cải tạo cảnh quan và điều hòa tiểu khí hậu. Thấm nước mưa xuống cũng giúp bổ cập hữu hiệu cho nguồn nước ngầm đang ngày càng khan hiếm, suy kiệt. Trong trường hợp khả năng kiểm soát dòng chảy tại chỗ bị hạn chế thì có thể phân tán dòng chảy theo các lưu vực nhỏ, dẫn nước đi bằng những giải pháp như sử dụng kênh mương hở và nông, lưu giữ nước mưa trong những hồ chứa và cho thấm xuống đất ở những khu vực thích hợp. Để ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm, có thể áp dụng những giải pháp xử lý tại chỗ trong bãi đất thấm, hồ lắng, bãi lọc ngầm trồng cây, vv…[13].  Mô hình (SUDS) này đã được Chương trình thoát nước và chống ngập đô thị ứng phó với BĐKH (GIZ) thực hiện dự án thí điểm tại 3 thành phố: TP. Long Xuyên (An Giang), Rạch Giá (Kiên Giang) và Cà Mau (Cà Mau) với quy mô vừa và nhỏ vào 2017-2019. Qua đánh giá sơ bộ bước đầu các giải pháp đưa ra đã góp phần giải quyết ngập úng khu vực thí điểm. Trong kế hoạch 2021-2025 GIZ sẽ tiến hành đánh giá hiệu quả của dự án thí điểm và triển khai nhân rộng cho 10 đô thị tỉnh lỵ còn lại của vùng ĐBSCL.
Dự án thí điểm mô hình thoát nước bền vững (SUDS) tại TP. Cà Mau

Mô hình “ Thành phố Bọt biển – Sponge City”: Thông qua sự kết hợp giữa quy hoạch đô thị và khả năng xây dựng, thành phố bọt biển về thoát nước đô thị được phát triển dựa trên cách tiếp cận có hệ thống về giảm thiểu nguồn, kiểm soát quá trình và xử lý có hệ thống, đồng thời áp dụng các biện pháp kỹ thuật toàn diện về xâm nhập, giam giữ, lưu giữ, thanh lọc, sử dụng và xả nước mưa. Cơ sở hạ tầng của thành phố bọt biển là điều phối một cách có hệ thống các khía cạnh khác nhau về số lượng và chất lượng nước, sinh thái và an toàn nhằm đạt được nhiều mục tiêu đó là giảm thiểu lũ lụt đô thị, kiểm soát ô nhiễm dòng chảy, cải thiện môi trường nước đô thị và phục hồi sinh thái nước đô thị [14]. Mô hình này đã được thực hiện tại hơn 30 thành phố của Trung Quốc và một số thành phố của Đức từ 2015, qua đánh giá bước đầu mô hình này cũng có nhiều thành công song cũng còn có những hạn chế nhất định. Tùy theo điều kiện cụ thể mỗi đô thị vùng ĐBSCL, GIZ trong kế hoạch triển khai giai đoạn 2021-2025 của mình sẽ lựa chọn 2-3 đô thị để áp dụng thí điểm mô hình này.

3. Thiết lập các vùng ngập nước tự nhiên

Mục đích thiết lập các vùng ngập nước tự nhiên để thúc đẩy khả năng thích ứng với lũ lụt của đô thị. Khả năng thích ứng với lũ của thành phố là khả năng chịu đựng ngập lụt, tức là năng lực chứa lũ trong các vùng ngập tự nhiên trong đô thị. Khả năng chịu đựng ngập lụt là yếu tố rất quan trọng để ngăn ngừa thiệt hại do lũ lụt, và nó quyết định đến việc liệu thành phố có thích nghi được với lũ lụt hay không. Thiết lập không gian chứa lũ dựa trên hệ sinh thái đất ngập nước (ĐNN) là giải pháp chứa lũ hiệu quả để giúp các thành phố nâng cao khả năng chịu đựng lũ đồng thời phục hồi lại hệ sinh thái các dòng sông chảy qua đô thị. ĐNN có chức năng tự nhiên là truyền tải và lưu trữ dòng chảy. Khi lũ lụt xảy ra, khối lượng vận chuyển và lưu trữ lũ tại vùng ĐNN lớn hơn nhiều so với kênh rạch. Lưu trữ ở vùng ngập xảy ra khi nước bị ngắt khỏi dòng chảy chính và được giải phóng chậm sau khi đỉnh lũ đã trôi qua. Lưu trữ nước diễn ra lâu dài trên bề mặt ĐNN và thông qua quá trình thẩm thấu dẫn tới một lượng nước lớn được giữ lại trong suốt thời kỳ ngập lụt. Thảm thực vật vùng ĐNN có tác dụng giữ nước và kìm hãm dòng chảy để giảm cao độ của dòng nước lũ, từ đó giúp giảm tốc độ xói mòn đất. Việc bố trí các vùng ĐNN rải rác trong đô thị sẽ giúp phân tán dòng chảy, thảm thực vật dày làm giảm sóng lũ, nhờ trì hoãn việc giải phóng nước lũ trên bề mặt do đó làm tăng thêm lượng nước lưu trữ. Nhờ những động thái thủy văn này, các con sông ở vùng ngập lũ tự nhiên có đỉnh lũ thấp và tốc độ lũ nhỏ hơn các con sông bị kiểm soát hai ven bờ[13]. QHĐT của các đô thị vùng ĐBSCL trong tổ chức không gian cần có những giải pháp lập các vùng ngập nước tự nhiên như việc tận dụng các dòng sông, hồ điều tiết nước, các vườn hoa, công viên, các thảm cỏ, các sân, bãi công cộng trong đô thị làm nơi ngập nước/lưu trữ nước trong một thời gian nhất định qua đó góp phần giảm thiểu ngập úng đô thị….

4. Từng bước chuyển đổi từ kiểm soát lũ sang thích ứng với lũ

Kiểm soát lũ lụt hiện nay tại vùng ĐBSCL tập trung vào các dòng sông mà ít chú ý vào môi trường đã được xây dựng nên dễ tạo ra một cảm giác về độ an toàn, an ninh và làm giảm khả năng phản ứng tại chỗ với lũ. Kiểm soát lũ làm giảm khả năng thích ứng với lũ của đô thị. Khi kiểm soát lũ được xem là biện pháp ưu tiên trong quản lý lũ thì dường như các biện pháp thích ứng với lũ sẽ rất khó được thực hiện trong tương lai gần. Tôn trọng quy luật tự nhiên, tùy thuộc vào điều kiện từng đô thị trong vùng, việc nghiên cứu chuyển dần từ kiểm soát lũ sang thích ứng với lũ cho mỗi đô thị là rất cần thiết.

5. Một số giải pháp chung về thoát nước và chống ngập cho đô thị

Các giải pháp chung về thoát nước và chống ngập cho đô thị nói chung và vùng ĐBSCL (tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi địa phương) có thể phân ra 2 nhóm: giải pháp công trình và giải pháp phi công trình.

–  Giải pháp công trình nhằm tăng cường năng lực cho các công trình để hoạt động tiêu thoát nước có hiệu quả, các công trình bao gồm: Nạo vét, khơi thông dòng chảy của sông, kênh, mương (tuyến tiêu nước cấp I); Củng cố, nâng cấp đê sông, đê bao, đê biển; Xây dựng hầm/bể ngầm chứa nước, hồ chứa nước, hồ điều hòa đầu mối cùng với các trạm bơm tiêu thoát nước và mạng lưới cống thoát nước…..

–  Giải pháp phi công trình bao gồm: Rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống các cơ chế chính sách; Rà soát, điều chỉnh các Quy hoạch đô thị, quy hoạch thoát nước; Tăng cường hợp tác và xúc tiến đầu tư; Xâu dựng hệ thống cơ sở dữ liệu ; Ứng dụng công nghệ thông tin; Hệ thống quan trắc; Đổi mới và tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng; Tổ chức, hoàn thiện bộ máy; Cung cấp thiết bị quan trắc,thiết bị lưu trữ, thiết bị thấm…nhằm góp phần tăng cường năng lực cho quản lý các hoạt động  thoát nước.

Thay lời kết

Các đô thị của Việt Nam nói chung và đặc biệt là Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng đã và đang đối mặt với ngập úng gia tăng mà nguyên nhân chính là tốc độ thị hóa nhanh và tác động của BĐKH. Tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, những diễn biến thất thường của BĐKH cùng với xu thế chung về phát triển kinh tế và môi trường đòi hỏi phải phương thức tiếp cận mới tăng cường khả năng thích ứng của đô thị. Thách thức mà các đô thị đang đối mặt là làm thế nào để hệ thống thoát nước đô thị thích ứng với tác động bất lợi của BĐKH. Trong dự thảo Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang trình Thủ tướng phê duyệt rất tiếc những nội có liên quan đến hiện trạng hạ tầng thoát nước của vùng sơ sài, các giải pháp lớn mang định hướng khung không rõ ràng, bài viết góp phần làm rõ hơn về thực trạng về phát triển đô thị, tình hình thoát nước và ngập ứng đô thị cũng như các hoạt động quá tải của kết cấu hạ tầng thoát nước từ đó đề xuất hướng tiếp cận mới để góp phần bổ sung và hoàn thiện đồ án Quy hoạch vùng ĐBSCL và giúp các địa phương trong vùng giải quyết những bất cập này.

———————————–

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương, “Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019,” Tổng cục Thống kê, Hà Nội, 2020.
[2] Cục Phát triển Đô thị, “Yêu cầu phát triển hệ thống đô thị – Nông thôn vùng ĐBSCL trong bối cảnh BĐKH và NBD,” Kỷ yếu Hội thảo “Định hướng phát triển hệ thống đô thị, nông thôn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long” ngày 10/12/2020, Cần Thơ, 2020.
[3] Royal HaskoningDHV, “Dự thảo Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050,” Royal Haskoning DHV, Hà Nội, 2020.
[4] Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 68/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ : Về việc phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, 2018.
[5] Viện QHXD Miền Nam, Thuyết minh tóm tắt Điều chỉnh QHXD Vùng ĐBSCL đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2050, TP. HCM, 2016.
[6] Nguyễn Bá, “Biến đổi khí hậu nhìn từ ĐBSCL: Nhiều thách thức và những giải pháp thích ứng,” [Trực tuyến]. Available: http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/7/24/24/210420/Default.aspx.
[7] “Tác động biến đổi khí hậu ở các tỉnh ĐBSCL,” Cổng thông tinh điện tử Bộ NN&PTNT, 2012. [Trực tuyến]. Available: https://www.mard.gov.vn/Pages/tac-dong-bien-doi-khi-hau-o-cac-tinh-dbscl-1538.aspx. [Đã truy cập 2021].
[8] Bộ Tài nguyên và Môi trường, Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam, Hà Nội: NXB Tài nguyên – Môi trường và bản đồ VN, 2012.
[9] Viện Quy hoạch Thuỷ lợi miền Nam, “Quy hoạch tổng thể thủy lợi ĐBSCL,” HCM, 2011.
[10] UN-Habitat, “Hồ sơ các thành phố Việt Nam,” NXB Tài chính, Hà Nội, 2014.
[11] Olaf Neussner, Vấn đề dưới mặt đất – Sụt lún đất tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, Hà Nội: Deutsche Gesellschaft für Internationale Zusammenarbeit (GIZ) GmbH, 2019.
[12] Mai Trọng Nhuận, “Mô hình đô thị ven biển có khả năng thích ứng với BĐKH”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội ISBN 978 604 626631 0, 2016.
[13] GIZ, “Đánh giá sự thích ứng với ngập lụt đô thị và Quản lý thoát nước của Việt Nam dưới tác động của BĐKH”, Nhà xuất bản Xây dựng ISBN 978 604 82 3091 3, 2020.
[14] Wenliang Wang, Linwei Zhang, Junqi Li, et al , “Tiêu chuẩn đánh giá cho hiệu ứng thành phố bọt biển”, IWA Pub ISBN: 9781789060546, 2020.

 

TC AS&CS số in tháng 5/2025

Bài viết liên quan

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM NHIỀU NHẤT