28 C
Hanoi
Thứ Ba, 3 Tháng 6, 2025

Dự báo chục năm nữa ĐBSCL cạn kiệt cát

Ngày 29/9/2023, tại Cần Thơ diễn ra hội thảo công bố kết quả xây dựng Ngân hàng Cát ĐBSCL và dự báo hiện trạng cát sông ở ĐBSCL với tầm nhìn 2030-2040, do Cục Quản lý đê điều và Phòng chống thiên tai Việt Nam cùng WWF-Việt Nam tổ chức. Đây là Ngân hàng Cát đầu tiên trên thế giới được thực hiện quy mô toàn đồng bằng, cung cấp số liệu mới nhất về trữ lượng cát trên sông Tiền và sông Hậu nhằm hỗ trợ các cơ quan chức năng trong việc quản lý khai thác cát bền vững ở ĐBSCL. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nếu giữ nguyên tốc độ khai thác như hiện tại, trữ lượng cát tích lũy từ hàng trăm năm qua ở ĐBSCL sẽ cạn kiệt trong 10 năm tới.

Trưởng nhóm tư vấn Liên doanh Deltares (Hà Lan) Sepehr Eslami giới thiệu quá trình nghiên cứu xây dựng Ngân hàng Cát ĐBSCL

Mục tiêu và dữ liệu của Ngân hàng Cát

Trước khi vào hội thảo, ông Hà Huy Anh, Quản lý Quốc gia Dự án Quản lý Cát Bền vững ở ĐBSCL (WWF-Việt Nam) chia sẻ với các nhà báo: “Kết quả Ngân hàng Cát nhấn mạnh tính chất xuyên biên giới, liên tỉnh của cát và khuyến nghị việc lập một kế hoạch quản lý tập trung trên quy mô vùng thay vì quản lý, cấp phép theo từng tỉnh như hiện nay, đồng thời cần công nhận cát là một loại tài nguyên quan trọng với các biện pháp quản lý, chế tài chặt chẽ. Ngân hàng cung cấp dữ liệu để thúc đẩy chuyển đổi, mong muốn cả xã hội đồng hành cùng Chính phủ trong việc phát triển các vật liệu thay thế và giải pháp xây dựng bền vững bảo vệ ĐBSCL. Đồng thời, hy vọng vận động các quốc gia trong khu vực tiểu vùng Mekong cùng xây dựng một Ngân hàng Cát cho toàn lưu vực sông Mekong và cùng chia sẻ trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên chung rất giá trị này”.

Trưởng nhóm tư vấn Liên doanh Deltares (Hà Lan) Sepehr Eslami giới thiệu quá trình nghiên cứu xây dựng Ngân hàng Cát ĐBSCL: “Khởi động từ tháng 3/2022, được thực hiện bởi các chuyên gia từ Liên doanh Deltares và các đối tác Việt Nam, bao gồm các hoạt động khảo sát thực địa, thu thập các dữ liệu thứ cấp để ước tính trữ lượng cát hiện có ở ĐBSCL với tầm nhìn 2030-2040. Ngân hàng Cát được xây dựng dựa trên việc xác định bốn yếu tố 1) lượng cát đổ về ĐBSCL qua hai nhánh chính, 2) lượng cát đổ ra biển, 3) lượng cát khai thác trong đồng bằng và 4) trữ lượng cát hiện có ở đáy sông.

Quản lý Quốc gia Dự án Quản lý Cát Bền vững ở ĐBSCL Hà Huy Anh nhấn mạnh mục đích xây dựng Ngân hàng Cát để đồng hành cùng Chính phủ bảo vệ ĐBSCL

“Kết quả khảo sát năm 2022 cho thấy: Lượng cát đổ về ĐBSCL từ thượng nguồn qua hai nhánh chính chỉ còn 2-4 triệu m3/năm, do phần lớn bị giữ lại ở các đập thuỷ điện ở thượng nguồn. Lượng cát đổ ra vùng ven biển mỗi năm chỉ có khoảng 0,6 triệu m3. Tốc độ khai thác cát hiện tại từ 35-55 triệu m3/năm. Trữ lượng cát ở đáy sông đo đạc được là 367 – 550 triệu m3, đây là lượng cát đã được tích luỹ từ hàng trăm năm, có vai trò quan trọng đối với sự ổn định của đồng bằng. Có thể thấy, với tốc độ khai thác cát hiện tại thì trữ lượng cát ở đáy sông cũng sẽ hoàn toàn cạn kiệt trước năm 2035”.

Cảnh báo: “ĐBSCL đang đứng trước một thách thức lớn, đó là cân bằng giữa phát triển kinh tế, ổn định xã hội và duy trì các chức năng sinh thái tự nhiên. Ở ĐBSCL, cát sông, vốn được xem là vật liệu có giá thành rẻ, dễ khai thác tại chỗ đã trở thành thiết yếu trong xây dựng. Từ góc nhìn môi trường, cát sông là thành tố quan trọng của trầm tích cân bằng quá trình lún tự nhiên của đồng bằng, duy trì tính nguyên vẹn và khả năng chống chịu của ĐBSCL trước các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Khai thác cát sông quá mức được xem là một trong những tác nhân chính gây ra việc thâm hụt trầm tích, dẫn đến gia tăng xói mòn lòng sông, sạt lở bờ sông bờ biển, khuếch đại thủy triều và gia tăng xâm nhập mặn vào mùa khô. Đến cuối năm 2022, toàn ĐBSCL có đến 596 vị trí sạt lở bờ sông (582,7km) và 48 vị trí sạt lở bờ biển (221,7km) với 99 điểm được phân loại đặc biệt nguy hiểm. Tình trạng này ảnh hưởng trực tiếp với đời sống kinh tế – xã hội của hàng triệu người dân ở ĐBSCL, đe dọa trực tiếp hệ sinh thái, môi trường tự nhiên của vựa lúa lớn nhất Việt Nam”.

Phương pháp nghiên cứu xây dựng Ngân hàng Cát ĐBSCL

Ông Marc Goichot, Quản lý Chương trình Nước ngọt, WWF Châu Á – Thái Bình Dương phát biểu: “Giá trị của cát không chỉ nằm ở giá khai thác và vận chuyển, mà còn phải tính đến những chi phí đánh đổi khi chúng ta lấy cát ra khỏi sông, mà cái giá lớn nhất có thể là sự biến mất hoàn toàn của ĐBSCL vào cuối thế kỷ này nếu không có những hành động cấp thiết. Chúng tôi cũng hiểu rằng với nhu cầu phát triển cấp bách hiện nay, việc ngừng khai thác cát ngay lập tức là không thể, nhưng Ngân hàng Cát giúp chúng ta biết rằng, cát không phải là vô tận, việc khai thác tận thu vì lợi ích kinh tế trước mắt sẽ đem lại những hệ lụy to lớn hơn gấp nhiều lần. Chúng ta cần có một chiến lược sử dụng hiệu quả để bảo toàn phần lớn lượng cát còn lại nhằm duy trì một ĐBSCL ổn định và bền vững.”

Những câu hỏi và trả lời

Một số câu hỏi được đặt ra và những người xây dựng Ngân hàng Cát ĐBSCL trả lời:

Câu 1: Phương pháp nghiên cứu và cách tính toán lượng cát đổ vào ĐBSCL, lượng cát đổ ra biển, lượng cát khai thác trong đồng bằng và trữ lượng cát hiện có ở đáy sông?

Trả lời: Tính toán lượng cát đổ về ĐBSCL và lượng cát đổ ra biển dựa trên tính toán vận chuyển tải lượng đáy, lưu lượng nước, tốc độ dòng chảy, hàm lượng trầm tích lơ lửng, mực nước, nhóm nghiên cứu mới thiết lập mô hình số Delft3D-Flexible Mesh mô tả sông Mekong từ Kratie bao gồm hồ Tonle Sap ở Campuchia, đồng bằng ngập lũ ở Campuchia và Việt Nam, 9 nhánh sông chảy qua ĐBSCL và trải dài 70 km trên thềm lục địa ngoài khơi. Trong nghiên cứu hiện tại, việc kiểm định vận chuyển cát được thực hiện dựa trên các ước tính tải lượng đáy duy nhất, kết quả của phương pháp đo sâu hồi âm đa tia (MBES) có cùng độ lớn với tải lượng đáy được mô hình hóa.

Dự báo với trữ lượng cát đáy sông hiện nay, nếu khai thác tăng 5% thì đến năm 2030 cạn kiệt, khai thác như hiện nay đến năm cạn kiệt 2033, giảm 5% thì đến năm 2040 cạn kiệt

Lượng cát khai thác trong đồng bằng: dùng công nghệ viễn thám. Tỷ lệ khai thác cát được ước tính bằng phát hiện tàu khai thác bằng ảnh vệ tinh và chuyển đổi từ số lượng tàu thành ước tính khối lượng cát khai thác dựa trên tỷ lệ khai thác dự kiến (theo thể tích gầu, vận tốc khai thác, thời gian khai thác từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Từ năm 2017 đến năm 2022, khối lượng khai thác cát hàng năm ước tính dao động trong khoảng từ 35 đến 55 triệu m3/năm. Lưu ý rằng độ phân giải hiện tại của hình ảnh vệ tinh đặt ra những hạn chế về độ chính xác của ước tính ví dụ như không thể ước tính khối lượng cát khai thác vào ban đêm.

Để tính được trữ lượng cát hiện có ở đáy sông, nhóm nghiên cứu đã tiến hành đo đạc ở tâm trên chiều dài khoảng 550km dọc sông Tiền và sông Hậu bằng kỹ thuật đo đạc địa chấn tầng nông, lấy mẫu trầm tích bề mặt đáy sông. Ngoài ra, dữ liệu địa hình đáy sông từ đo sâu hồi âm đa tia, dữ liệu lỗ khoan địa chất do các tỉnh cung cấp để kiểm tra độ tin cậy của tính toán. Kết quả, đầu nguồn sông Tiền và Cổ Chiên có trữ lượng cát cao nhất, tiếp theo là sông Hậu. Trữ lượng cát thấp hơn đáng kể ở hạ nguồn sông Mekong và sông Hàm Luông. Tổng trữ lượng cát của ĐBSCL ước tính khoảng 367-550 triệu m3, chủ yếu dựa trên lớp cát di động.

Câu 2: Bộ Tài NN&MT công bố trữ lượng cát ở ĐBSCL là 120 triệu m3, đủ để đáp ứng nhu cầu. Trong khi báo cáo Ngân hàng Cát với trữ lượng 367 – 550 triệu m3 lại khuyến nghị nên hạn chế khai thác. Vậy đâu là sự khác biệt giữa hai con số này?

Trả lời: Do hạn chế về nguồn lực để thực hiện khoan địa chất dọc theo lòng sông chính nên ước trữ lượng cát của Dự án này tập trung vào trữ lượng lớp cát di động trên toàn bộ lòng chính sông Tiền và sông Hậu. Cụ thể, sau khi phân tích chiều rộng của mặt cắt có cát so với mặt cắt ngang sông, các chuyên gia từ Deltares đã nhận thấy, trung bình cát sông chiếm 50-75% bề rộng của bề mặt đáy sông. kết hợp với dữ liệu độ dày cát để ước tính trữ lượng tối thiểu và tối đa. Tuy nhiên, đây là toàn bộ cát có ở bề mặt đáy sông được vận chuyển từ thượng nguồn trong thời gian hàng trăm năm. Và lưu ý rằng, không có nghĩa là tất cả lượng cát này có ý nghĩa kinh tế để khai thác bởi có những khu vực độ dày tầng cát di động có thể tới 5m (có thể khai thác) nhưng có những khu vực chỉ 10-20cm (không thể khai thác).

Do vậy, sự khác biệt về con số có thể là do mục đích và quy mô tính toán trữ lượng cát khác nhau. Vì vậy, chúng tôi mong muốn Chính phủ hợp tác với WWF và các bên liên quan để tăng cường giám sát dòng cát (trầm tích) di chuyển trên toàn vùng đồng bằng nhằm cung cấp dữ liệu chính xác hơn, điều này sẽ rất quan trọng trong việc ra các quyết định về quản lý, khai thác, phục hồi hiện nay và trong tương lai.

Câu 3: Kịch bản dự báo nếu tiếp tục khai thác như hiện tại, ĐBSCL sẽ hết cát trong 10 năm tới. Các hệ quả môi trường khi khai thác hết trữ lượng này là gì?

Trả lời: Theo kịch bản giảm thiểu sự phụ thuộc vào cát sông có kiểm soát (giảm 5% so với hiện tại), với trữ lượng cát hiện tại có thể kéo dài đến năm 2040. Dự án này không nghiên cứu các tác động về hình thái và môi trường của việc khai thác toàn bộ lượng cát hiện có. Tuy nhiên, từ nhiều nghiên cứu việc này có thể dẫn đến tình trạng mất ổn định bờ sông (xói mòn bờ) cũng như xói mòn bờ biển, dựa trên các dự báo về độ mặn hiện có, Nhóm chuyên gia Liên doanh Deltares (đơn vị tư vấn Ngân hàng Cát) cảnh báo rằng việc mất đi nửa tỷ m3 trầm tích từ hệ thống sông ĐBSCL có thể làm tăng thêm 10-15% số diện tích bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn trong ĐBSCL. Lưu ý rằng Ngân hàng Cát hiện tại được xây dựng dựa vào những kết quả khảo sát của năm 2022. Ví dụ, nguồn cung cấp cát từ thượng nguồn có thể giảm do hoạt động khai thác ở Campuchia. Ngoài ra, xói lở do khai thác cát ở thượng nguồn cũng di chuyển xuống hạ nguồn. Do đó, nên xem xét tính chất xuyên biên giới của việc quản lý trầm tích (bao gồm cát) ngoài ĐBSCL trong các hoạt động hợp tác đa phương. Các kết quả có thể đóng vai trò là cơ sở quan trọng cho việc quản lý bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên của sông Mekong và để giảm tính dễ bị tổn thương của ĐBSCL đối với biến đổi khí hậu và tác động của con người.

Câu 4: Sau nghiên cứu Ngân hàng Cát, WWF sẽ có kế hoạch gì tiếp theo để giải quyết vấn đề cát hiện nay?

Trả lời: Ngân hàng Cát là dữ liệu đầu vào quan trọng cho một Kế hoạch Duy trì ổn định Hình thái sông của ĐBSCL, dự kiến sẽ công bố trong 1-2 tháng tới. Dự án tìm hiểu và đánh giá các nguyên nhân cốt lõi (thiếu hụt trầm tích) dựa trên kết quả nghiên cứu và xây dựng Ngân hàng Cát, kết hợp với một đánh giá toàn diện ở cấp độ toàn đồng bằng về hình thái sông dựa trên dữ liệu lịch sử từ 1998, 2008, 2018 và kết quả đo đạc, mô hình hóa từ các đơn vị tư vấn về ảnh hưởng của khai thác cát và các giải pháp công trình hiện hữu đối với thay đổi hình thái sông,… trong năm 2022. Dự án sẽ phối hợp với Cục Quản lý Đê điều & Phòng chống thiên tai và các đối tác cấp tỉnh, các trường đại học để xây dựng một kế hoạch phục hồi hình thái sông cho toàn ĐBSCL. Kế hoạch này sẽ cung cấp cho chính quyền các tỉnh bản đồ rủi ro hình thái sông và khuyến nghị các giải pháp phù hợp để duy trì tính ổn định hình thái sông cho khu vực ĐBSCL. Bên cạnh đó, một công cụ đơn giản để giám sát tính ổn định bờ sông cũng sẽ được chia sẻ với các bên liên quan.

Bên cạnh, Dự án cũng đang thực hiện đánh giá về trữ lượng, tiềm năng khai thác/sản xuất cũng như hiệu quả chi phí của các vật liệu thay thế cho cát sông một cách bền vững và công bố vào cuối năm nay.

Câu 5: Nhiều người rất quan tâm, qua số liệu nghiên cứu Ngân hàng Cát ĐBSCL nếu so sánh với vài chục năm trước thì có biết được lượng cát về ĐBSCL hàng năm ít hơn như thế nào và lòng sông đã sâu hơn bao nhiêu hay không?

Trả lời: Số liệu trước đây không đầy đủ. Tuy nhiên, qua những số liệu đáng tin cậy có được, có thể đánh giá lượng cát hàng năm về ĐBSCL trước đây khoảng 6 triệu m3, bây giờ chỉ còn 2-4 triệu m3. Độ sâu của lòng sông trong vài chục năm qua, mỗi năm trung bình sâu thêm 13 cm. Đây cũng là hai nguyên nhân chính làm tăng sạt lở bờ sông, bờ biển.

Việc xây xây dựng một Ngân hàng Cát cho toàn vùng đồng bằng và Kế hoạch Duy trì Ổn định Hình thái Sông là hai nhiệm vụ quan trọng của dự án “Giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai thông qua sự tham gia của khối công tư trong khai thác cát bền vững ở ĐBSCL” do Quỹ Sáng kiến Khí hậu IKI – BMU Đức tài trợ. Dự án triển khai từ năm 2019, dự kiến kết thúc vào giữa năm 2024, có 4 nội dung cụ thể: 1/Xây dựng cơ sở dữ liệu Ngân hàng/tổng lượng trầm tích (chủ yếu là cát sỏi) cho ĐBSCL; 2/Tăng cường nhận thức của cộng đồng và các cơ quan ra quyết định về những tác động của việc khai thác cát và sỏi không bền vững, làm gia tăng thiên tai ở ĐBSCL; 3/Tăng cường khả năng cho các đối tác truy cập thông tin về rủi ro liên quan đến khai thác cát, sỏi và thúc đẩy tìm kiếm các nguồn vật liệu thay thế cát sỏi trong lĩnh vực xây dựng; 4/Xây dựng các khuyến nghị, hướng dẫn về khai thác cát sỏi bền vững và lồng ghép trong chính sách phòng chống thiên tai và phát triển bền vững ở ĐBSCL.

 

SÁU NGHỆ (Theo https://vietnam.panda.org/)

Bài viết liên quan

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM NHIỀU NHẤT