*Ths Phạm Ngọc Quỳnh
TP. Giáo dục&Đào tạọ H. Vĩnh Bảo, T.P Hải Phòng
ĐT: 0977921886.
Email: phamngocquynhhuvb@gmail.com
Tóm tắt
Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (1986 – 2015) đã đạt được những thành tựu quan trọng và có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm trở lại đây, hạ tầng nông thôn ngày càng phát triển, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng lên. Thanh tựu đó, khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Những thành tựu đó xuất phát từ quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách phát triển kinh tế hợp lý, đúng đắn của Nhà nước, nhất là trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã triển khai nhiều cơ chế chính sách có tính đột phá như cơ chế khoán, phát triển kinh tế nông hộ, đổi mới mô hình sản xuất. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay kinh tế nông nghiệp nước ta sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao thì con đường dẫn tới sự phát triển là phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, do vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là giải pháp quan trọng để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy làm rõ một số luận cứ khoa học và xu hướng phát triển kinh tế nông nghiệp nước ta theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện hiện nay là rất quan trọng; góp phần làm cơ sở cho các nhà hoạch định chính sách.
Những căn cứ khoa học trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Trước hết, có thể nhận thấy sự phát triển của nền kinh tế của mỗi quốc gia, tính hiệu quả của hoạt động kinh tế, trình độ phát triển của nền kinh tế được phản ánh vào cơ cấu kinh tế đã hình thành của quốc gia đó trong những điều kiện xác định. Cơ cấu kinh tế là cơ sở kinh tế của một xã hội nhất định.
Cơ cấu kinh tế được hiểu là tổng thể các mối quan hệ kinh tế biểu hiện thành các quan hệ về tỷ lệ, số lượng, chất lượng phát triển các ngành sản xuất vật chất, các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, các hoạt động dịch vụ, các vùng và lãnh thổ của nền kinh tế quốc dân, các thành phần kinh tế cấu thành một thể chế kinh tế thống nhất. Cơ cấu kinh tế như một hệ thống phân bổ và phát triển lực lượng sản xuất trên toàn xã hội dựa trên trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, của mức độ và tính chất xã hội hoá sản xuất mà xã hội đạt được và xu thế phát triển theo chiến lược phát triển chung về kinh tế – xã hội được hoạch
định trước.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong chiến lược phát triển kinh tế quốc gia. Quy luật tổng quát chi phối sự phát triển của xã hội cũng đồng thời là quy luật chi phối trực tiếp việc xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục tiêu phát triển, đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Có nhiều cách tiếp cận và từ đó có thể hiểu cơ cấu kinh tế ở nhiều mức độ khác nhau. Ở mức độ chung, cơ cấu kinh tế là cơ cấu nền kinh tế quốc dân, là toàn bộ sơ đồ tổ chức, bố trí sản xuất, lực lượng sản xuất của xã hội, là thực lực phát triển và hiệu quả lao động của nền kinh tế biểu hiện thành năng suất, giá trị, thành chỉ số của tổng sản phẩm quốc nội. Ở mức độ cụ thể, cơ cấu kinh tế được biểu hiện là cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; trong nội bộ mỗi ngành được chia thành những phân ngành phản ánh bức tranh về phân công lao động xã hội. Ngoài ra còn có cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ như đô thị, nông thôn, vùng ven biển,….
Với cách tiếp cận trên, cơ cấu các thành phần kinh tế là phương diện quan trọng hợp thành nội dung cơ cấu kinh tế nói chung. Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế có thể biểu hiện thành cơ cấu ngành hay cơ cấu vùng lãnh thổ, theo cấp độ và quy mô.
Cơ cấu kinh tế hợp lý là cơ cấu cho phép khai thác được mọi tiềm năng bên trong, bên ngoài và các lợi thế so sánh bên ngoài vùng. Sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái, phát huy thế mạnh về lao động, đất đai, truyền thống ngành nghề, tạo thế đứng vững cho vùng trên thị trường. Đảm bảo sự phát triển với năng suất cao cho cả địa phương, vùng và cả nước.
Từ khái niệm về cơ cấu kinh tế, cho thấy: Nền kinh tế quốc dân là một tổ hợp đa ngành, đa lĩnh vực, trên góc độ không gian lãnh thổ của mỗi nước, người ta phân chia ra thành kinh tế nông thôn và kinh tế thành thị; sự phân biệt giữa kinh tế nông thôn và kinh tế thành thị dựa vào sự khác nhau về địa lý, gắn liền về trình độ phát triển lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và những đặc thù của các ngành. Khu vực nông thôn bao gồm một không gian rộng lớn, ở đó cộng đồng dân cư sinh sống và hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp (theo nghĩa rộng) với các hoạt động kinh tế – xã hội gắn liền với lĩnh vực đó; kinh tế nông thôn là một tổng thể các ngành kinh tế trong khu vực nông thôn và có liên quan mật thiết với nhau: Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và bao gồm cả công nghiệp, dịch vụ trong nông nghiệp; các ngành kinh tế đó quan hệ chặt chẽ với nhau theo những tỷ lệ nhất định về số lượng và liên quan chặt chẽ về mặt chất lượng. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một bộ phận của hệ thống cơ cấu kinh tế quốc dân, phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế quốc dân nhưng mang tính độc lập tương đối. Do vậy Cơ cấu kinh tế nông nghiệp được hiểu là tổng thể các mối quan hệ theo tỷ lệ, số lượng và chất lượng tương đối ổn định của các yếu tố kinh tế-xã hội liên quan đến sản xuất và nông nghiệp trong một khoảng thời gian và không gian nhất định.
Mặt khác, công nghiệp hóa nông nghiệp là quá trình chuyển biến lên một nền công nghiệp, sản xuất và quản lý sản xuất kinh doanh với trình độ trang bị công nghệ tiên tiến, không còn phổ biến bằng công cụ thủ công mà phải đạt mức độ “thủy lợi hóa, cơ khí hóa, hóa học hóa, điện khí hóa, sinh học hóa” cao hơn hẳn và cao hơn nữa gồm cả tự động hóa, tin học hóa… Công nghiệp hóa nông nghiệp là việc áp dụng các phương pháp sản xuất công nghiệp vào nông nghiệp; là việc sử dụng các thiết bị máy móc hiện đại và phương pháp quản lý tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp, nhằm giảm thiểu mức độ lệ thuộc của con người vào thiên nhiên, giúp con người chế ngự được thiên nhiên trong sản xuất nông nghiệp, cải thiện được điều kiện lao động cực nhọc, nâng cao được năng suất lao động nông nghiệp và thu hẹp sự cách biệt nông nghiệp và công nghiệp, giữa thành thị và nông thôn. Hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình sử dụng các phương tiện sản xuất hiện đại, công nghiệp hiện đại cung cấp và áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại vào nông nghiệp, để cải biến phương thức sản xuất nông nghiệp lạc hậu thành phương thức sản xuất nông nghiệp tiên tiến, biến nền nông nghiệp truyền thống thành nền nông nghiệp hiện đại. Cốt lõi hiện đại hóa nông nghiệp là nâng cao năng suất lao động nông nghiệp.
Từ khái niệm về Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, thì có thể hiểu Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hoá, nâng cao hiệu quả sản xuất và năng suất lao động. Trên cơ sở phát triển nông nghiệp hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp, đẩy nhanh tích tụ ruộng đất theo quy mô từng vùng. Phát triển nhiều doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời giải phóng một bộ phận nông dân thoát khỏi lao động sản xuất nông nghiệp truyền thống, phân tán, tự cấp, tự túc sang hoạt động phi nông nghiệp, từng bước đô thị hoá nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình phát triển kinh tế có tính quy luật phổ biến ở tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ nhằm biến đổi từ chỗ có cơ cấu chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu sang cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ hiện đại.
Những nội dung và nhân tố chủ yếu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Từ khái niệm nêu trên, có thể nhận thấy nội dung chủ yếu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sau: Tăng năng suất cây lương thực là lúa ở các vùng đồng bằng lớn và các thung lũng vùng miền núi để giải quyết an ninh lương thực trong điều kiện đất canh tác giảm, dân số gia tăng; đồng thời xoá đói giảm nghèo ở vùng miền núi, vùng khó khăn làm cơ sở ổn định nền kinh tế trong quá trình chuyển dịch; Trong qúa trình này, việc nâng cao chất lượng lúa gạo và chuyển một phần diện tích sang gạo đặc sản, gạo sạch nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng phát triển cây thức ăn gia súc tại các vùng, địa phương rất khó khăn về nguồn nước tưới tiêu nhằm phát triển chăn nuôi; Chuyển dịch cơ cấu cây trồng tại các vùng đồng bằng thâm canh và các vùng ven đô theo chiến lược đa dạng hoá cây trồng hàng hoá phục vụ nhu cầu tăng lên của thị trường trong nước, đa dạng hoá xuất khẩu để tránh rủi ro của thị trường. Chuyển dịch cơ cấu các vùng trồng lúa kém hiệu quả sang cây công nghiệp, đồng thời phát triển các cơ sở chế biến nông sản công nghệ cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng công nghiệp chế biến, nông sản quy mô vừa và nhỏ tại vùng nguyên liệu gắn liền với việc xây dựng các vùng sản xuất nguyên liệu. Đồng thời áp dụng công nghệ hiện đại và các tiêu chuẩn chất lượng của thế giới và khu vực. Thúc đẩy chiến lược đa dạng hoá sản phẩm nội ngành thông qua đa dạng hoá giống và đa dạng hoá sản phẩm chế biến ở các vùng chuyên môn hoá cây trồng. Từ đó sẽ góp phần làm giảm rủi ro và ổn định hệ thống sản xuất. Việc áp dụng đa dạng hoá nội ngành sẽ làm tăng năng lực cạnh tranh. Chuyển dịch cơ cấu nông lâm ngư nghiệp thông qua tăng tỷ trọng chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản vẫn cần thiết duy trì tốc độ tăng trưởng cao hơn mức tăng của nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; Áp dụng đồng bộ công nghiệp chế biến thức ăn và thể chế quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu lâm nghiệp theo hướng tăng cường chế biến gỗ dựa trên nhập nguyên liệu gỗ và khai thác thành hàng hoá các sản phẩm phi gỗ nhằm tăng giá trị gia tăng cho lâm nghiệp, tạo việc làm tại chỗ.
Về một số nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bao gồm các nhân tố: Nhân tố về kinh tế và tổ chức, trong đó vấn đề thị trường và các nguồn lực có ý nghĩa quan trọng; Hệ thống chính sách kinh tế-xã hội vĩ mô của nhà nước có ảnh hưởng lớn đến xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Nhân tố về kỹ thuật: Là nhân tố có vai trò quyết định có tác động mạnh mẽ đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp; Nhờ áp dụng khoa học, công nghệ vào canh tác, chế biến, bảo quản ở các ngành kinh tế nhằm nâng cao sản xuất và chất lượng sản phẩm để từng bước hoà nhập vào thị trường trong nước và quốc tế. Nhân tố tự nhiên là điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu có ý nghĩa rất quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhân tố phong tục, tập quán truyền thống dân tộc là nhân tố có tác dụng thúc đẩy, vừa có tác dụng kìm hãm; Phong tục tập quán lạc hậu thì quá trình diễn ra chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm và ngược lại. Nhân tố con người là nhân tố quyết định việc hình thành cơ cấu kinh tế; Cơ cấu kinh tế hình thành mang tính khách quan, song nó hình thành nhanh hay chậm, hợp lý hay không hợp lý là do tác động chủ quan của con người. Để xây dựng và thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá hợp lý cần tổng hoà các nhân tố khách quan và chủ quan của từng địa phương, từng vùng từ đó tạo động lực thúc đẩy quá trình đó nhưng vẫn có hiệu quả.
Từ những khái niệm trên, các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và thực tiễn phát rtiển đất nước trong gần 30 năm đổi mới, có tthể nhận định xu thế phát triển kinh tế nông nghiệp Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới đó là:
(1) Tăng giá trị sản xuất hàng hoá nhưng cần bảo đảm an ninh lương thực: Một nền nông nghiệp phát triển là nền nông nghiệp đa dạng hướng mạnh vào sản xuất hàng hoá cho giá trị thu nhập cao. Trong đó, cơ cấu lương thực giảm dần; cây trồng hàng hoá và tỷ trọng của ngành chăn nuôi, thuỷ sản tăng dần. Bên cạnh đó phải chú trọng đến an ninh lương thực vì an ninh lương thực góp phần bảo đảm cho khu vực nông thôn phát triển. Tuy nhiên, để thực hiện hài hoà mục tiêu theo xu thế trên là xây dựng nền nông nghiệp phát triển bền vững thì khái niệm an ninh lương thực ở cấp địa phương không nhất thiết nông dân bắt buộc phải sản xuất lương thực mà nên hướng tới đa dạng hoá hoạt động. Đối với các vùng chuyên sản xuất lương thực, thì nhà nước phải có cơ chế đặc thù;
(2) Xu hướng cơ cấu hướng xuất khẩu và hướng phục vụ trong nước: hướng vào thị trường trong nước là hướng vào thị trường đang phát triển dưới tác động của đô thị hoá và công nghiệp hoá. Nhu cầu sản phẩm chăn nuôi và rau quả sẽ tăng nhanh hơn so với nhu cầu lương thực do vậy sẽ là một động lực lớn cho sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Hướng xuất khẩu, nông nghiệp sẽ góp phần tích tụ vốn ban đầu cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xu hướng hiện nay là thương mại hoá toàn cầu nên lợi thế cạnh tranh luôn thay đổi, khi nông nghiệp càng phát triển thì giá nông sản lại càng giảm xuống; Do vậy, vấn đề đặt ra là hướng vào xuất khẩu thì phải giảm chi phí đầu vào thì nông dân và doanh nghiệp mới tăng thu nhập, lợi nhuận. Việc xác định một cơ cấu thị trường hướng xuất khẩu hay hướng phục vụ nhu cầu trong nước hợp lý là chiến lược quan trọng nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá;
(3) Xu hướng chuyên môn hoá và đa dạng hoá: Trong nông nghiệp, xu hướng phổ biến là chuyên môn hoá để đạt các mục tiêu kinh tế, đạt hiệu qủa kinh tế cao; Tuy nhiên chuyên môn hoá cao có hạn chế là làm cho sản xuất phụ thuộc vào đầu tư công nghiệp, dẫn đến độc canh, làm giảm độ màu mỡ của đất và tăng sâu bệnh, rất dễ dẫn đến tình trạng nông dân “được mùa, mất giá”. Đa dạng hoá cho phép sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị và cơ sở vật chất, sử dụng các phụ chế phẩm cho phép luân canh có lợi cho độ màu mỡ mà giảm tác hại của sâu bệnh; khai thác tốt tiềm năng đất đai, mặt khác cũng giảm rủi ro sự bấp bênh giá cả thị trường; Từ đó tạo sức cạnh tranh và tăng giá trị hàng hoá; Tuy nhiên, sản xuất manh mún, nhỏ lẻ lại đang cản trở quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp. Đa dạng hoá hoạt động phát triển kinh tế hộ nông dân là chiến lược cho phép kết hợp hài hoà các yếu tố tự nhiên và kinh tế xã hội trong việc lựa chọn chiến lược hoạt động. Đa dạng hoá diễn ra các cấp độ khác nhau (cấp độ nông dân, cấp vùng và cấp quốc gia). Đa dạng hoá cấp vùng hay cấp quốc gia là xu hướng gia tăng số ngành và số sản phẩm sản xuất; Đa dạng hoá kinh tế vùng là kết quả của tập hợp nhiều kiểu lựa chọn thích nghi của hộ nông dân hoặc là đa dạng hoá hoặc là chuyên môn hoá để thích nghi với môi trường kinh tế-xã hội.
(4) Xu hướng phi thương mại của nông nghiệp: Có thể nhận thấy kinh tế nông nghiệp ngoài chức năng kinh tế còn nhiều chức năng khác như an ninh lương thực, sự đứng vững của nông thôn, vai trò duy trì văn hoá, cảnh quan và môi trường. Vì vậy chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp cần chú ý đến sự cân bằng giữa các vai trò nêu trên của nông nghiệp./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2010), Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Giai đoạn 2011 – 2020. 2. Nguyễn Đăng Chất (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ. 3. Lê Quốc Doanh (2006), Nghiên cứu luận cứ khoa học để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đề tài khoa học công nghệ cấp nhà nước (mã số KC 07.17). 4. Nguyễn Hữu Đễ (2009), “Quản lý nhà nước trong phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH ở nước ta hiện nay- Một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Khoa học xã hội nhân văn, số 03 năm 2009. 5. Nguyễn Hữu Đức (1996), Những tác động của cơ chế quản lý kinh tế với việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Luận án Phó tiến sĩ. 6. Vũ Ngọc Kỳ (1996), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Yên Bái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án Phó tiến sĩ. 7. Đặng Kim Oanh (2005), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng côn nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Giáo dục lí luận chính trị, số 01 năm 2005. 8. Đăng Kim Sơn (2001), Lý luận, thực tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt Nam, Sách tham khảo. 9. Viện Khoa học Kĩ thuật nông nghiệp Việt Nam-Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nghiên cứu luận cứ khoa học để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số KC 07-17. |