Sáng 13/3, tại TP Cần Thơ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghị quyết là cột mốc mang tính đột phá, đánh dấu sự thay đổi từ cách tiếp cận mang tính phòng vệ thụ động đối với biến đổi khí hậu chuyển sang chủ động thích ứng với thiên nhiên. Sự thay đổi ấy hiện lên khá rõ ở tỉnh Cà Mau, địa phương “mong manh” bậc nhất ĐBSCL trước biến đổi khí hậu và phóng viên tạp chí Ánh sáng và cuộc sống đã có cuộc trao đổi với Phó giám đốc Sở NN&PTNT Tô Quốc Nam.
Sạt lở, hạn hán, ngập úng nghiêm trọng
– Biến đổi khí hậu đã gây ra những thiệt hại nặng nề cho ĐBSCL, còn ở Cà Mau như thế nào, thưa ông?
– Biến đổi khí hậu đang gây ra 3 thách thức lớn: Hạn hán và xâm nhập mặn ngày càng khắc nghiệt, triều cường và nước nước biển dâng ngày càng cao, bão và áp thấp nhiệt đới ngày càng nhiều. Cả 3 thách thức ấy liên tục tác động vào Cà Mau, dồn dập, nghiêm trọng gây ra sóng to gió lớn, sạt lở bờ biển, ngập úng khiến Cà Mau trở nên rất “mong manh” trước thiên nhiên.
Xin nêu vài con số cụ thể. Về sạt lở bờ biển, tỉnh Cà Mau có 254 km bờ biển bao quanh ba mặt từ Đông sang Tây; trong đó, hơn 100 km bờ Đông mỗi năm bị sạt lở sâu vào 30-40 m (có đoạn sâu vào 50 m), hơn 100 km bờ Tây mỗi năm bị sạt sở sâu vào 20-30 m; chỉ còn vài chục ki lô mét vùng Mũi Cà Mau là còn phù sa bồi lấn ra biển, tuy nhiên mức độ bồi lấn đã rất thấp so với trước đây. Về hạn hán và xâm nhập mặn, mùa khô năm 2015-2016 được đánh giá là “lịch sử” nhưng đến năm 2019-2020 còn khắc nghiệt hơn, gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp và giao thông hơn 1.000 tỷ đồng. Chỉ riêng huyện Trần Văn Thời trong mùa khô 2019-2020 có 45.000 ha lúa bị ảnh hưởng vì thiếu nước ngọt và cũng vì khô hạn làm co ngót đất mà hệ thống giao thông đường bộ ở huyện này mất ổn định, bị sụt lún hơn 1.000 điểm.

– Triều cường và nước biển dâng ngày càng cao, tại sao lại còn có khô hạn dẫn đến co ngót đất làm sụt lún đường giao thông?
– Triều cường và nước biển dâng ở những khu vực nằm ngoài đê biển, đê bao bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Còn vùng nông nghiệp phải giữ nước ngọt mà đặc điểm của Cà Mau là nước ngọt từ sông Hậu không chảy tới được, nên phải bao ví giữ nước mưa để sản xuất và sinh hoạt. Khi hạn lớn, nhiều con kênh trước đây không bao giờ cạn nước thì vừa rồi cũng khô kiệt, nứt nẻ khiến đất co ngót; chênh lệch với mực nước biển dâng bên ngoài càng cao dẫn tới những con đường giữa hai khu vực mất ổn định, sụt lún.
– Mức triều cường vànước biển dâng cụ thể ở Cà Mau?
– Từ năm 2009 đến nay, triều cường và nước biển dâng liên tục tăng mỗi năm 5-10 cm. Tại cửa sông Gành Hào, mức nước triều cường năm 2010 là 1,9 m nhưng đến năm 2020 đã lên 2,54 m. Ở các vùng đất sản xuất nông nghiệp, bà con đắp bờ bao hàng năm phải bồi thêm nửa gang tay như ở huyện Năm Căn và Ngọc Hiển vùng Mũi Cà Mau. Cần nói rõ thêm, hiện tượng ngập sâu là do nước biển dâng và còn có nguyên nhân sụt lún đất; bên cạnh biến đổi khí hậu gây mưa nhiều cũng làm tăng tình trạng ngập úng vào mùa mưa, ngày càng nghiêm trọng. Năm 2020, vào tháng 9 và 10, hai đợt mưa lịch sử đã nhấn chìm TP Cà Mau gần một tháng, khác với trước kia triều cường gây ngập úng chỉ mấy giờ trong ngày rồi triều rút thì hết ngập, còn bây giờ nước thoát không kịp nên ngập úng kéo dài cả ngày, nhiều ngày. Triều cường và mưa gây ngập úng đã nhấn chìm con đường từ Năm Căn về Mũi Cà Mau khiến xe cộ không còn chạy được, đây là đoạn cuối đường Hồ Chí Minh mới làm từng mở ra nhiều hy vọng thúc đẩy phát triển mảnh đất cực Nam.
– Tỉnh Cà Mau với ba bề là biển nhưng mùa khô thì hạn nặng, mùa mưa lại ngập úng nặng, cùng với sạt lở bở biển nghiêm trọng, vậy hệ sinh thái nổi tiếng của Cà Mau là rừng ngập mặn cũng như canh tác tôm-lúa đang chịu tác động như thế nào?
– Rừng ngặp mặn ven biển vốn là lá chắn bảo vệ Cà Mau từ xưa, đang dần biến mất. Dải rừng ven biển ở Cà Mau vốn dày từ 500 – 3.000 m, nay chỉ còn 100 – 1.000 m. Còn sản xuất nông nghiệp, khô hạn làm cho canh tác tôm-lúa rất khó khăn. Bởi như tôi đã nói, vùng đất Cà Mau không có nước ngọt từ sông Hậu, chỉ bao ví giữ nước mưa để sản xuất, khi hạn lớn thì nước bay hơi, còn muối mặn sắt lại, ao nuôi tôm trong nội đồng có khi độ mặn lên tới 35-40 %o, thậm chí 50%o, mặn chát hơn nước biển, tôm bị dịch bệnh chết hết. Tôm nước lợ chỉ sống tốt với nước có độ mặn 15-25%o.
Sáng tạo và kiến nghị để thích ứng
– Thưa ông, trước thực trạng “mong manh” nhiều bề, những năm qua, Cà Mau đã làm gì để chủ động thích ứng với thiên nhiên?
– Cà Mau đã sáng tạo được kè ly tâm tạo bãi để bảo vệ và phát triển đai rừng phòng hộ rất tốt, cho đến nay, đây là phương pháp chống xói lở bờ biển hiệu quả nhất. Trước kia, các kiểu đê biển xây gần bờ đều bị sóng biển đánh sụp đổ. Còn kè ly tâm dựng cách bờ 100-200 m, gồm những cọc bê tông đóng liền nhau, đóng 2 hàng song song cách nhau 1,5 – 2 m và bỏ đá to vào giữa để giảm sóng, giữ phù sa tạo bãi bồi. Nguyên lý như sau, sóng biển vào đến đây sẽ bị phân tán luồn qua kẽ hở các hộc đá và kết quả là lực tàn phá bị triệt tiêu, bờ bên trong được bảo vệ không bị xói lở, nước biển khi trở ra cũng luồn qua hộc đá thì phù sa được giữ lại, vài năm tạo nên bãi bồi. Nếu sát bờ còn rừng tự nhiên thì rừng sẽ lan ra bãi bồi, nếu không còn rừng tự nhiên thì trồng rừng cũng tạo được khu rừng mới. Cà Mau làm thí điểm kè ly tâm tạo bãi vào năm 2010 với 300 m, thành công nên mở rộng đến nay bằng nhiều nguồn vốn đã làm được 40 km, khôi phục gần 300 ha rừng; phương pháp này đang được các tỉnh ở ĐBSCL học tập.
Trong sản xuất nông nghiệp cũng có nhiều sáng tạo thích ứng với thiên nhiên, điển hình là thí điểm trữ nước tại chỗ cho 600 ha ở huyện Trần Văn Thời. Khu vực này, ngân sách đầu tư đê bao vòng ngoài, bên trong nông dân làm ao trữ nước với diện tích theo quy định cho phép là 20% tổng diện tích, tức là cứ 1 ha thì hạ thấp 2.000 m2 để làm ao. Đây cũng là ao nuôi cá, tăng thêm thu nhập.
– Vừa rồi ông cho biết, Cà Mau có hơn 200 km bờ biển phía Đông và phía Tây bị xói lở nghiêm trọng, với phương pháp làm kè ly tâm tạo bãi bảo vệ bờ biển rất tốt vậy tại sao chục năm qua chỉ làm được 40 km?
– Vì thiếu vốn. Mỗi cây số kè ly tâm tạo bãi cần 25-30 tỷ đồng ở bờ biển Tây và 45-50 tỷ đồng ở bờ biển Đông (phía Đông tốn tiền hơn bởi chênh lệch thủy triều lớn và sóng to hơn). So với các loại đê biển khác thì làm kè ly tâm tạo bãi là rẻ và có hiệu quả cao, tuy nhiên vượt quá xa khả năng của tỉnh, rất cần Trung ương hỗ trợ. Trong lúc, nguồn vốn của Trung ương làm hệ thống đê biển từ Quảng Ngãi vào Kiên Giang, chẳng hiểu sao lại để sót bờ biển tỉnh Cà Mau. Nên tỉnh Cà Mau đang kiến nghị Trung ương hỗ trợ vốn làm kè ly tâm tạo bãi, trước mắt tập trung bảo vệ những khu vực xung yếu tổng cộng dài khoảng 70 km. Đầu năm 2021 này đã có các nguồn vốn hỗ trợ để làm khoảng 10 km.
Cà Mau cũng đã chủ động kiến nghị Trung ương xem xét cho thực hiện thí điểm cơ chế “Giao đất đầu tư các dự án sau khi doanh nghiệp đầu tư xây dựng kè tạo bãi trồng rừng ven biển” nhằm thu hút các nhà đầu tư có năng lực. Chẳng hạn khôi phục được 100 ha rừng thì doanh nghiệp được lợi gì trong khai thác du lịch, đổi đất bên trong để đầu tư. Đây là cơ chế xã hội hóa bảo vệ bờ biển, trồng rừng kết hợp tạo quỹ đất đầu tư các dự án đem lại lợi ích nhiều mặt cho xã hội trong điều kiện hiện nay.
– Còn việc trữ nước ngọt để sản xuất nông nghiệp thích ứng với thiên nhiên đã được khẳng định ở nhiều cấp, tại sao Cà Mau còn làm thí điểm chỉ với 600 ha? Và vấn đề liên kết vùng để tăng khả năng thích ứng, Cà Mau ở vị trí “mong manh” nhất ĐBSCL đã được hưởng lợi gì từ các dự án ở địa phương khác và sẽ làm gì cùng các địa phương khác?
Việc trữ nước chưa thể thực hiện phạm vi rộng bởi muốn chuyển đổi từ 10 ha đất nông nghiệp trở lên thành ao là phải trình Quốc hội phê duyệt. Vấn đề này cũng đang được kiến nghị để có cơ chế thông thoáng hơn cho Cà Mau. Còn hưởng lợi từ các dự án liên vùng, Cà Mau đang đặt hy vọng vào Hệ thống thủy lợi Cái Lớn-Cái Bé bên Kiên Giang, sẽ hỗ trợ dẫn nước ngọt sông Hậu về phát triển vùng tôm-lúa ở huyện Thới Bình. Vùng này trên nền đất ao tôm, vào mùa mưa bà con nông dân đã trồng lúa ST25 làm nên một sản phẩm OCOP, khi có nước sông Hậu sẽ phát triển ổn định hơn. Song song, Cà Mau cũng đề nghị Trung ương hỗ trợ vốn đầu tư đê kè chống sạt lở bờ sông, liên kết các tỉnh khác làm hệ thống trữ ngọt trong kênh rạch để thoát dần tình trạng mùa mưa thừa nước gây ngập úng mà mùa khô lại nứt nẻ vì thiếu nước, giữ xanh tươi 50.000 ha rừng tràm quý giá, xây dựng nền kinh tế sông nước bền vững.
– Xin trân trọng cám ơn ông
SÁU NGHỆ