Tôi có dự định trong năm 2017 sẽ phối hợp với Bùi Phương Thảo – con gái nhà thơ Quang Dũng – ấn hành cuốn sách “Nhà thơ Quang Dũng từ Tây Tiến đến Tây Nguyên” để kỷ niệm 35 năm nhà thơ đến với Đà Lạt và vùng kinh tế mới Hà Nội tại Lâm Đồng. Đó là tập hợp những bài viết, những cuộc phỏng vấn với những con người từng gắn bó với nhà thơ Quang Dũng ở Lâm Đồng. Dự định đó đã trở thành hiện thực.
Trong bài viết “Nhân cách lớn làm nên một con người” đăng trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, tôi đã viết về nhà thơ Quang Dũng như sau:
“Cuối năm 1982 tôi rời Đà Lạt đưa gia đình về định cư ở vùng kinh tế mới Hà Nội tại Lâm Đồng. Gia đình tôi có hai cháu nhỏ. Cháu trai đầu ba tuổi và cháu gái mới sinh được ba tháng tuổi. Cuộc đời tôi bắt đầu từ những năm tháng khốn khó của thời bao cấp.
Tôi gởi cháu trai vào học lớp mẫu giáo của cô Bùi Phương Hạ. Không ngờ Hạ chính là con gái của nhà thơ Quang Dũng.
Những năm đó ở vùng kinh tế mới, lãnh đạo Hà Nội đưa các thầy cô giáo của thủ đô tăng cường vào dạy học ở Lâm Đồng. Rất nhiều cô giáo xinh đẹp đã có mặt ở đây. Hạ là một trong những cô giáo như thế.
Một buổi chiều, chúng tôi đốt lửa lên nấu một nồi chè đỗ đen, loại đỗ có hạt rất to do tôi trồng vừa mới thu hoạch mấy ngày. Chúng tôi với mấy cô giáo dạy mẫu giáo quây quần bên nồi chè ngun ngút khói, thơm lựng, trong đó có Hạ.
Hạ kể: Khi em lớn lên, em đi học ở Hà Nội mới biết thơ của cha bị coi là tiểu tư sản. Trong sách giáo khoa trung học còn có những dòng rất nặng nề về thơ của cha. Các anh chị em của em lớn lên sinh sống thật khó khăn. Bài thơ “Tây tiến” nổi tiếng của cha trở thành oan gia cho gia đình. Họ bảo: Cha em đã đi theo cách mạng, chiến đấu mà còn mơ tưởng về những cô gái Hà Nội, là tiểu tư sản phải xem xét lại. Vậy là cuộc đời của cha em lận đận cho đến ngày qua đời trong đói khổ ở bệnh viện. Bản thân em ra trường không được vào biên chế Nhà nước. Nhưng em không quan tâm lắm, em muốn các cháu bây giờ được đi học, được vui vẻ là em mừng lắm rồi.

Trong ánh mặt Hạ lúc đó ánh lên những giọt nước mắt long lanh. Trong ánh đèn điện tù mù ở kinh tế mới tôi nhận thấy trong mắt em buồn. Nỗi buồn xa xăm vời vợi của một thời tuổi trẻ như chúng tôi.
Trong câu chuyện, tôi cố hướng về những kỷ niệm ngày xưa của nhà thơ Quang Dũng, nhưng Hạ bảo: Buồn lắm anh ơi! Và không kể gì nhiều về cha mình.
Từ đó, chúng tôi coi nhau như anh em một nhà. Nhà thơ Quang Dũng lên thăm và ở lại với con gái rất nhiều ngày. Ông rất thương con vì thơ mình mà vất vả, oan khiên từ những bài thơ lãng mạn mà mình đã viết:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùng.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới.
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Những câu thơ lung linh, sáng lòa, sang trọng như thế mà trở thành nỗi đau cho cuộc đời các con, có lẽ nhà thơ Quang Dũng cũng không bao giờ lường hết được.
Một lần nhà thơ Quang Dũng đến chơi nhà, ông đã hướng dẫn cho tôi cách tập thể dục mỗi sáng sớm trước khi bước ra khỏi giường. Ông bảo: Cần phải có một số động tác vận động làm cho toàn thân ấm lên. Không được vùng dậy bước xuống đất mà chưa khởi động. Rồi ông “biểu diễn” cho tôi xem.
Nhà thơ Quang Dũng cao to như Tây. Ông từng bị dân quân bắt trói dẫn về trụ sở xã, vì tưởng ông là phi công Mỹ bị bắn rơi ở miền Bắc. May có người biết chuyện nói cho bà con nghe, ông mới được thả.
Nhà thơ Quang Dũng ăn uống rất khỏe, nhưng rất từ tốn, chậm rãi. Hôm đó, tôi nấu một nồi bắp nếp Tây Nguyên. Đây là sản phẩm tôi lao động tự túc trên mảnh đất sau đài truyền thanh của vùng. Quả bắp to dài, hạt mẩy. Quả bắp vừa nhắc từ nồi ra còn nóng hổi. Tôi mời ông dùng, ông cảm ơn vừa cầm quả bắp, vừa ăn vừa nói chuyện. Một hồi lâu ông bảo: Mình đếm được 987 hạt nhé! Và cầm bát nước bắp luộc lên uống từ tốn. Tôi thật ngạc nhiên.

Nhà thơ Quang Dũng hay đến nhà tôi chơi. Nhà tôi lúc đó nằm ở dưới thung lũng của dốc Phì Phò, khu Đống Đa kinh tế mới Hà Nội. Căn nhà gỗ tôi mua lại của một thanh niên tiền trạm vừa về Hà Nội. Nhà lợp ngói prociment, ba bức tường xung quanh làm bằng đất sét trộn với rơm. Mặt trước là những tấm ván tận dụng thưng thành vách, đứng ở ngoài nhìn thấy rõ bên trong. Quanh năm gió lùa lồng lộng. Nền nhà đất đá lổm chổm. Tuy vậy nhà vẫn có ba gian, xung quanh vườn toàn cỏ tranh. Nhà thơ Quang Dũng đến chơi, thường chống gậy. Khi nghe ông đến, con trai đầu lòng của tôi chạy lên dìu ông xuống nhà. Nhà hơi dốc, nhưng ông vẫn đi. Một lần, ông vừa đi chơi Đà Lạt về mang theo một nải chuối chín. Ông bảo: Đây là quà của hai cháu nhỏ.
Tôi hay gọi nhà thơ Quang Dũng bằng bác. Hai bác cháu nói chuyện rất tâm đắc. Nhà thơ Quang Dũng hôm đó ở lại dùng cơm trưa với gia đình. Đến chiều, tôi đưa nhà thơ Quang Dũng về nhà Bùi Phương Hạ. Nói là nhà của Hạ, thật ra là căn phòng nhỏ trong khu tập thể dành cho giáo viên. Hai bác cháu vừa đi chậm rãi, vừa nói chuyện từ khu Đống Đa vào đến Trường Đông Anh dưới dốc Bà Mão hơn 7 cây số. Nhưng khi tôi hỏi nhà thơ Quang Dũng về những ngày khó khăn khi bài thơ “Tây Tiến” bị “đánh”, thì bác nói sang chuyện khác, và có chút gì đó sờ sợ trong ánh mắt của nhà thơ. Tôi lại nói sang chuyện khác, thấy nhà thơ vui hẳn lên. Bác hỏi tôi về việc Hạ sẽ lấy chồng ở Nam Ban, ý tôi thế nào .v.v…Những lúc rỗi, ông hay lên Đà Lạt chơi và rất yêu vùng đất này. Nhà thơ cũng có dự định vào Nam Ban ở hẳn với gia đình tôi để viết truyện ký, làm thơ. Nhưng mấy năm sau trở về Hà Nội do sức khỏe không được tốt nên nhà thơ không vào được nữa.
Một lần, nhà thơ Quang Dũng bị tai biến, bàn tay của nhà thơ không duỗi ra được. Bùi Phương Hạ chăm sóc cho bố tận tình. Nhưng hằng ngày nhà thơ Quang Dũng vẫn đi ra giếng của hợp tác xã cách khu tập thể giáo viên mấy trăm mét, xách nước về cho Hạ. Hạ không đồng ý, nhưng nhà thơ bảo rằng: Cần phải tập luyện để bàn tay trở lại như cũ. Lần sau, vào thăm nhà thơ Quang Dũng, bác khoe đã viết được rồi và đưa cho tôi xem mấy trang bản thảo nhà thơ vừa viết xong. Nét chữ tuy không còn như xưa, nhưng vẫn hiện lên những cảm xúc mà ông dành tâm huyết thổ lộ trong đó.

Ngày Bùi Phương Hạ còn dạy học ở Nam Ban, Hạ có tặng cho tôi một bức ảnh về nhà thơ Quang Dũng đội mũ ca-lô. Tôi thấy chiếc mũ hơi là lạ. Tôi hỏi. Hạ giải thích: Đó là chiếc mũ làm bằng…chiếc khăn quàng bằng len. Em quấn chiếc khăn lên đầu bố, kết thành chiếc mũ ca-lô như thời bố đi bộ đội Tây Tiến. Con trai bác Trần Lê Văn (bạn thân của nhà thơ Quang Dũng) đã chụp bức ảnh này vào năm 1976 và tặng em. Sau đó tôi đã gởi bức ảnh kèm theo bài viết về Quang Dũng in trên báo Lâm Đồng.
Khoảng cuối năm 1984, Bùi Phương Hạ và một số cô giáo đi tăng cường ở vùng kinh tế mới Hà Nội tại Lâm Đồng được trở về thủ đô. Tháng 8 năm 1988, tôi ra Hà Nội và cùng anh trai tôi là nhà văn Trần Phương Trà, công tác ở Ban văn nghệ Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam đi xe đạp đến trụ sở Liên hiệp các Hội Văn học nghệ Việt Nam số 51 Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Hôm đó là ngày tang thương của giới văn nghệ. Nỗi buồn không sao tả nổi. Một thoáng ba người trong một gia đình văn nghệ: Nhà thơ Xuân Quỳnh, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ và cháu Lưu Quỳnh Thơ ra đi vì một vụ tai nạn. Không ai bảo ai, mọi người lặng lẽ, đau buồn, nước mắt cũng lặng lẽ trào ra.
Sau đó, tôi đề nghị anh trai tôi chở tôi ghé qua thăm nhà thơ Quang Dũng ở nhà số 45 khu tập thể Nguyễn Công Trứ. Thời kỳ đó, Quang Dũng đang bệnh nặng. Ông nằm trên chiếc giường bệnh, phủ drap trắng. Tôi không tin trước mắt mình là nhà thơ Quang Dũng. Một con người to cao như Tây ngày nào, bây giờ là một bộ xương khô, teo tóp, lọt thỏm trên chiếc giường hơn một mét rưỡi. Trên khuôn mặt ông vẫn rạng rỡ. Mắt ông nhắm nghiền. Bà Bùi Thị Thạch, vợ nhà thơ Quang Dũng ghé miệng vào tai nhà thơ nói nhỏ: Có anh Trác ở Lâm Đồng ra thăm ông. Tôi thấy trên khóe mắt nhà thơ hai giọt nước mắt rơi ra lăn xuống đôi má hóp. Miệng ông thoáng một nụ cười nhẹ. Hôm đó tôi mang theo máy ảnh, nhưng không dám chụp, sợ ánh đèn flass lóe lên ảnh hưởng đến sức khỏe của nhà thơ Quang Dũng. Trên đường về, tôi kể lại, anh trai tôi trách tôi sao không chụp ảnh. Mỗi lần nhớ đến, tôi rất lấy làm tiếc.

Rời Hà Nội trở về Đà Lạt, trong một thời gian ngắn sau đó tôi nhận được tin nhà thơ Quang Dũng đã từ trần tại bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội.
Sau này khi theo học khoa ngữ văn trường Đại học Đà Lạt năm 1986, tôi đã làm luận văn tốt nghiệp “Đất nước, con người trong thơ Quang Dũng”, là một trong những luận văn lúc đó được nhà trường đánh giá cao.
Để có những ngày bên nhà thơ Quang Dũng, tôi thầm cảm ơn Bùi Phương Hạ. Hạ có chiều cao như bố. Mỗi lần anh em đi chơi với nhau, tôi bao giờ cũng đi trên lề cao, Hạ đi dưới lòng đường. Tôi chỉ có 1,65 mét, trong lúc đó Hạ cao hơn 1,7 mét. Khuôn mặt của Hạ đẹp như bố, mắt to, mũi cao. Về sau, Hạ lấy Nam, sinh được cháu Bảo. Cháu Bảo rất đẹp trai, khuôn mặt giống mẹ.
Khi nghe tin Bùi Phương Hạ mất, tôi thật sự bàng hoàng. Thương Hạ, tôi viết bài thơ: Cha thương em lặn lội lên rừng,/ Đêm trở rét dạ sờn không đủ ấm./ Ngoài kia gió quần lên cấp chín,/ Dáng cha to bè đốt lửa đêm đêm./ Em bình lặng như đời trong sạch quá,/ Em vô tư đến lớp đến trường./ Bầy em nhỏ trong căn nhà nhỏ,/ Làm dịu êm một kiếp ly hương./ Mười năm ra trường còn lận đận/ Vì em – con Quang Dũng nhà thơ./ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,”*/ Câu thơ xưa gian khó đến bây giờ…/ Hà Nội hôm nay nhà cao, đường rộng/ Em trở về tay trắng như xưa./ Ba năm lên rừng, em vào biên chế/ Cuộc đời thêm trang biết mấy cho vừa./ Anh thảng thốt / không ngờ / em ra người thiên cổ/ Ngày nào đây còn sưởi lửa cùng nhau./ Nhà thơ lớn – cha em ngồi đó,/ Bóng ông đỏ lừ sáng mãi mai sau.
Mấy lần ra Hà Nội, tôi đến thăm nhà thơ Trần Lê Văn, Ngô Quân Miện, Lữ Giang, nhạc sĩ Mặc Hy …, những người bạn rất thân của nhà thơ Quang Dũng, tôi được nghe nhiều câu chuyện về nhà thơ Quang Dũng, càng hiểu hơn nhân cách lớn của ông. Bây giờ tôi không còn được thấy nhà thơ Quang Dũng, em Bùi Phương Hạ bằng xương bằng thịt – nhưng hình ảnh của hai bố con ông luôn hiện hữu trong tôi. Những kỷ niệm không thể nào quên ấy sẽ mãi mãi đi suốt cuộc đời của tôi. Đó là những con người mà tôi vô cùng yêu quý, kính trọng. Những năm tháng khó khăn, vất vả của thời bao cấp không làm cho hai bố con gục ngã. Nhân cách lớn đã làm nên một con người, không chỉ là những bài thơ để đời và ở lại với triệu triệu trái tim người mà là đạo lý làm người của nhà thơ Quang Dũng.
Khi bài viết này của tôi được in trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn, thì khoảng 10 ngày sau (31.10.2011), nhà giáo Nguyễn Nguyên Phượng (tên thật là Nguyễn Anh Dũng) đã có bài viết chia sẻ:
“Đọc bài “Nhân cách lớn làm nên một con người” trên báo Văn Nghệ số 43, ngày 22/10/2011 của Trần Ngọc Trác viết về nhà thơ Quang Dũng, một chiến sĩ cách mạng trui rèn trong lửa đạn gian nan vì nền độc lập của nước nhà gợi trong tôi lắm nỗi bùi ngùi. Những năm 69, 70 của thế kỉ trước đất nước còn chia cắt, lúc còn theo học Đại học Văn khoa Sài Gòn, lớp sinh viên tuổi đời 18, 20 chúng tôi mê thơ ca tiền chiến trữ tình, lãng mạn như: Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính… à một lẽ tự nhiên. Riêng Quang Dũng qua những bài thơ được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc mê hoặc bọn tôi ở chất hào sảng, chinh chiến phong trần như “Em ở thành Sơn chạy giặc về/ Tôi từ chinh chiến cũng ra đi…Vầng trán em mang trời quê hương/ Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương…Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ/ Còn có bao giờ em nhớ ta…? (Đôi mắt người Sơn Tây), “Thoáng hiện em về trong đáy cốc/ Nói cười như chuyện một đêm mơ…Em đi áo mỏng buông hờn tủi/ Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?” (Đôi bờ), “ Hồn lính vương qua vài sợi tóc/ Tôi thương mà em đâu có hay” … (Nhà văn Đoàn Thạch Biền cũng dân Văn khoa Sài Gòn có tặng tôi một tập truyện ngắn mà anh lấy câu thơ này làm tựa đề Tôi hay mà em đâu có thương). Sau 1975, học xong lớp chuyển đổi sư phạm tôi dạy môn Văn bậc trung học lại càng hạnh phúc hơn khi soạn giảng bài “Tây Tiến” của Quang Dũng như gặp lại người quen biết cũ. Thi phẩm này đã từng tỏa sáng trong những trang đầu của nền thơ Cách mạng Việt Nam thậm chí còn được xếp trong bộ “tứ bình” thơ kháng chiến chống Pháp (“Bên kia sông Đuống” – Hoàng Cầm, “Màu tím hoa sim” – Hữu Loan, “Nhà tôi” – Yên Thao). Vậy mà đứa con tinh thần rứt ruột đẻ ra ấy lại trở thành “oan gia” đeo đuổi nhà thơ và các con của mình suốt một đời người! Khó mà tin được khi người viết đề cập đến “Tây Tiến” thì Quang Dũng, người cao to như Tây lại lảng tránh, lo lắng. Còn con gái nhà thơ, Bùi Phương Hạ phải rời bỏ Hà Nội làm cô giáo tăng cường ở vùng kinh tế mới Lâm Đồng những đến ba năm! Những giọt nước mắt tuôn rơi của chị vì những câu thơ “lung linh, sáng lòa, sang trọng” của cha mình, những câu thơ từng chiếm lĩnh tâm hồn không chỉ với đồng đội, chiến sĩ thời Tây Tiến mà cả những người yêu thơ, thế hệ thanh niên sau này.
Nhiều năm đứng trên bục giảng tôi đọc nhiều tư liệu, tham khảo không ít những bài bình về “Tây Tiến” của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, nhà giáo lâu năm với điểm chung nhất là ngợi ca hình tượng người chiến sĩ vệ quốc anh hùng – hào hoa, đậm chất bi tráng với tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh! Số phận thăng trầm của thi phẩm chỉ được điểm qua với cách cảm thụ khác ở vài khổ thơ (Gục lên súng mũ bỏ quên đời…/Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc…/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…) còn chuyện đời thực của nhà thơ, phần bên ngoài tác phẩm không thấy nói đến. Thực ra đây đó, thi thoảng bạn đọc yêu thơ Quang Dũng cũng biết chút ít điều này ở mục giai thoại làng văn, chuyện làng văn nghệ. Nay tác giả Trần Ngọc Trác kể lại khá tường tận nỗi ám ảnh nặng nề đầy chua xót. Bài thơ bị “đánh” vì cách hiểu áp đặt quan điểm thô thiển, tác giả là chiến sĩ cách mạng lại cho ra đời thi phẩm theo hệ tư tưởng của thành phần tiểu tư sản cho dù bài thơ được đông đảo người yêu thơ hâm mộ.
Chuyện người cầm bút bước chông chênh giữa cõi văn chương ủy mị – tuơi tắn cách mạng, ngẫu nhiên như là “phạm húy”, như là săm soi chuyện đời tư, oan khiên dòng tộc…bị “đánh” không tơi cũng tả thậm chí “treo bút”, “cấm vận” cũng có đến mấy “nạn nhân”. Thời gian và bạn đọc cùng sự đổi mới quan điểm nhìn nhận, thẩm định văn chương đã trả lại cho đời sống văn nghệ, nền văn học nước nhà những tác phẩm đã từng lao đao xứng đáng với giá trị vốn có cùng tài năng, tâm huyết đáng được trân trọng của tác giả. Và thi phẩm “Tây Tiến” lại tỏa sáng sau một chặng dài 40 năm chìm nổi gấp ba lần đời nàng Kiều luân lạc, phong trần của cụ Nguyễn Du! (Tác phẩm ra đời năm 1948, sau đổi mới năm 1986 mới được nhìn nhận, đánh giá lại. Năm 1990 đưa vào giảng dạy trong nhà trường). Thăng trầm rồi lại được ngợi ca trong đời sống văn học trong nước hay trên thế giới cũng là chuyện không có gì mới, nhưng nếu chỉ vì sự ấu trĩ của nhận thức, tầm nhìn khi đưa ra thẩm định, phê bình trong giới nghệ thuật mà tạo ra oan khiên, thảm cảnh cho người cầm bút chân chính thì đó là một việc đáng buồn.
Được kết bạn “vong niên” với nhà thơ tài hoa mà lận đận, làm bạn với cô giáo Hạ hẳn cũng nhờ chữ “duyên” để Trần Ngọc Trác xúc cảm viết nên những câu thơ tri âm cảm động “Mười năm ra trường còn lận đận/ Vì em – con Quang Dũng nhà thơ/ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”/ Câu thơ xưa gian khó đến bây giờ”…Và anh vẫn còn tiếc nuối mãi vì không chụp được ánh mắt, nụ cười thoáng nhẹ trước khi Quang Dũng từ giã cõi đời. Tôi nghĩ thế mà lại hay, lại đúng với người con của “xứ Đoài mây trắng”, bởi nhà thơ – chiến sĩ của một thời gian khổ – hào hùng đón nhận và sống cùng sự vùi dập không đáng có bằng “nhân cách lớn đã làm nên một con người” và bằng tinh thần Tây Tiến hiến dâng tuổi thanh xuân, tài năng, tâm huyết cho đời, cho dân tộc. Đương nhiên Tây Tiến và thơ của Quang Dũng “ở lại trong triệu trái tim người” mãi đến mai sau.”
Một trong những con người gắn bó, sẻ chia, chịu đựng những khó khăn cùng với nhà thơ Quang Dũng là bà Bùi Thị Thạch – người vợ yêu quý của ông.
Vậy là 65 năm (1948 – 2013) kể từ ngày nhà thơ Quang Dũng viết bài thơ “Tây Tiến” làm lay đọng biết bao thế hệ trẻ lên đường đánh giặc và cũng đã qua 25 năm, ngày ông đi xa, trong lòng tôi lúc nào cũng hiện lên hình bóng của ông như một người cha, người thầy thân thiết.
Trước khi có một chuyến đi làm phim tài liệu dài ngày ở biên giới phía Bắc, tôi đã gọi điện thoại cho Bùi Phương Thảo, con gái út của nhà thơ Quang Dũng ở Hà Nội với ý nguyện được đến thăm vợ nhà thơ Quang Dũng. Thảo rất mừng.
Sau khi rời biên giới về lại thủ đô, tôi đến thăm bà Bùi Thị Thạch – vợ nhà thơ Quang Dũng. Trước khi đến Nhà Tuổi Vàng – nơi bà đang ở, tôi ghé qua Trường Tiểu học Võ Thị Sáu – Hà Nội, hiện nay Thảo đang làm hiệu phó của trường. Thảo chở tôi qua nhiều đường phố Hà Nội đã được mở rộng ra phía Linh Đàm và dừng lại trước một căn nhà ống, kiểu nhà liền kề ở phố, nằm sâu phía trong rất yên tĩnh. Đó là Nhà Tuổi Vàng do chị Lê Tiểu Bình làm Giám đốc. Công việc ở Nhà Tuổi Vàng giống như một trung tâm dưỡng lão dành cho những người già, neo đơn mà con cái không có điều kiện chăm sóc vì bận công tác, gia đình và lo lao động kiếm sống từng ngày. Ở đây là căn nhà nhỏ ba tầng nằm trong quần thể của cả khối nhà liên kết. Hiện nay, Nhà Tuổi Vàng đang chăm sóc 9 người già. Người cao tuổi nhất là bà Bùi Thị Thạch 94 tuổi. Các ông bà khác tuổi từ 70 đến 80; cũng có người còn trẻ hơn cũng đang được nuôi dưỡng ở đây.
Một điều rất lạ, khi Thảo giới thiệu với bà: “Đây là anh Trác ở Lâm Đồng ra thăm” bà lại nhớ. Bà nhìn khuôn mặt tôi hồi lâu, rồi hỏi thăm cặn kẽ chuyện gia đình tôi, hỏi tôi đang làm gì, có mấy đứa con… đang ở đâu…
Thảo bảo: Không hiểu sao hôm nay mẹ em lại tỉnh, lại nhớ như thế! Mấy tuần rồi cụ không nhớ gì. Rồi bà cầm tay tôi lắc lắc bảo: Ông Dũng nhà tôi đi công tác chưa về, ông sắp ra một tập thơ mới, hôm nào in xong tôi tặng anh nhé!… Lúc này bà đang rơi vào trạng thái vô thức; nhưng khuôn mặt bà lại rất vui. Nét hồn hậu, hiền lành, kiêu sa của một người vợ thi nhân ngày nào vẫn hằn trên khuôn mặt. Ngày xưa chắc bà đẹp lắm!
Lâu lâu bà lại nhắc đến tên nhà thơ Quang Dũng. Trong trí nhớ của bà, hình ảnh của nhà thơ Quang Dũng thật khó phai mờ.
Tôi ghé tai bà nói thật to: “Bà có nhớ ông Dũng không?”. Bà bảo: “Nhớ chứ! Ông ấy đi đâu mà lâu về thế! Ông ấy nói mấy tháng nữa ông về. Sao lâu quá…” .Tôi lặng người đi. Nỗi buồn len trong từng cảm xúc của tôi. Và trong tôi như đang hiện ra dáng vẻ một người đàn ông lực lưỡng, đôi mày rậm, bộ ria rậm trắng xóa chống gậy đang đi về phía tôi… Nhà thơ Quang Dũng ngày nào đây chăng?. Nếu ông biết chuyện này hôm nay, có lẽ ông sẽ không nỡ ra đi sớm như thế này!
Cách đây 25 năm, trước khi nhà thơ Quang Dũng mất một tháng, tôi đến thăm ông ở số 45 khu tập thể Nguyễn Công Trứ – Hà Nội. Bà Bùi Thị Thạch – vợ ông – vẫn còn rất khỏe. Nhà thơ Quang Dũng nằm trên giường bệnh tại nhà, người ông gầy gò thân hình như thể còn da bọc xương; chỉ riêng khuôn mặt và vầng trán cao là còn chút vượng khí. Thân phận một con người, thân phận của một nhà thơ ngày nào phải chịu oan nghiệt vì những đứa con tinh thần của mình. Một câu thơ tưởng rằng vô thưởng, vô phạt “ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” mà đến khi nhắm mắt xuôi tay lòng vẫn không yên. Ông bị quy chụp là tiểu tư sản, là ủy mị, là thiếu sức chiến đấu …để hơn mười lăm năm sau ngày đất nước thống nhất ông mới được nhìn nhận, đánh giá lại; thì cuộc đời ông đã đi cùng sương khói.
Một cô gái tiểu thơ, yêu từng đường kim mũi chỉ ngày nào, đã từng yêu những câu thơ tình lãng mạn, thơ mộng của ông; đã từng gắn kết với ông, chịu đựng biết bao bão giông của cuộc đời, vẫn kiên trì sinh cho ông 5 người con cả trai lẫn gái, bây giờ đang nằm đây không một lời oán thán. Chỉ có những người đàn bà Việt Nam mới chịu thương chịu khó, yêu chồng con hết mực như thế!.
Các chị bảo mẫu ở đây cho biết: Bác gái (vợ nhà thơ Quang Dũng) vẫn ăn uống rất khỏe. Một ngày ba bữa, ba bát lớn. Ăn gì cũng được, không kén chọn. Nhưng chúng tôi không cho ăn quà vặt vì sợ bác ấy bỏ bữa.
Sắp đến giờ cơm chiều, bà bảo Thảo cho bà ăn bánh. Cô bảo mẫu không cho. Phải ăn cơm trước đã. Vậy là bà nghe. Bên cạnh là một cụ bà khoảng hơn 70 tuổi cầm bát cơm đưa vào miệng rồi vội vã lấy tờ tạp chí đậy lên trên. Cô bảo mẫu nhìn thấy, quát: Ăn đi, công an “ bắt” bây giờ…Cụ bà sợ quá lí nhí: Tui đang ăn mà, tui đang ăn mà, rồi cất tờ tạp chí sang bên…Phía bên phải cụ Thạch là một cụ bà hơn 80 tuổi chỉ nằm bẹp dí trên giường, cô bảo mẫu phải bón từng thìa cơm…
Cách bố trí trong Nhà Tuổi Vàng khá hợp lý. Mỗi cụ mỗi giường. Người bảo mẫu chỉ chăm sóc ăn uống hằng ngày, canh giấc ngủ từng đêm cho các cụ; khi ốm nặng gia đình kết hợp đưa các cụ đến bệnh viện. Phía trước là cửa sổ nhìn ra ngoài là cây xanh. Không gian yên tĩnh, thoáng đãng.
Mặc dù bận nhiều công việc quản lý ở nhà trường, lại được những người đồng đội của cha yêu quý giao cho nhiệm vụ làm Trưởng ban liên lạc Cựu chiến binh Trung đoàn 52 Tây Tiến và là thành viên Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ Văn nghệ sĩ xứ Đoài, nhưng Bùi Phương Thảo vẫn dành thời gian vào thăm mẹ một tuần mấy lần. Mỗi lần vài tiếng. Thảo bảo: Cứ mỗi lần vào như thế mẹ em rất vui; có lúc mẹ nhận ra em, có lúc thì không.
Hôm trước em có đọc cho nhà báo Trần Hoàng Thiên Kim một bài thơ em viết về mẹ nhân ngày Nguyên Tiêu Quý Tỵ vừa rồi. Bài thơ có nhan đề là “Giao thừa còn mẹ”: “Cơn mưa phùn thả dài từng sải chân / Đèn lên / Bừng sáng từng dãy phố / Những nụ đào bật hoa và lá xanh như ngọc / Phút giao thừa náo nhiệt / Ở lại phía sau cánh cửa khép hờ/ Mẹ ngồi đấy / Lặng thầm đếm giao thừa đủ đầy một bàn tay / Khói trầm hương ướt đẫm /Từng lời nguyện cầu con cài trắng tóc mẹ / Tóc đã thành mây bồng bềnh tiên cảnh…/Trên thân cây mốc thếch / Những nụ đào bật hoa, lá mướt xanh như ngọc / Con đếm giao thừa còn mẹ…”.
Thảo tâm sự ; “Ban đầu đưa mẹ em vào Nhà Tuổi Vàng mẹ em không chịu. Cụ cứ đòi về nhà. Như anh biết đấy, anh trai đầu của em ở Thái Nguyên làm giảng viên trường Đại học Nông nghiệp III, hiện đang là hội viên (lĩnh vực âm nhạc) Hội văn nghệ Bắc Thái, lại không gần cơ sở y tế. Anh thứ hai ở Hà Nội đã mất, anh thứ ba đang ở Thành phố Hồ Chí Minh. Gia đình em ở khu tập thể chật chội, suốt ngày đi làm, không có điều kiện chăm sóc cho mẹ trọn vẹn được.Thuê người làm giúp mẹ lại càng lo. Bàn mãi, tính mãi, chúng em quyết định đưa mẹ vào Nhà Tuổi Vàng thì yên tâm hơn, lỡ mai đây cụ có đi xa thì cũng có nơi còn lo hậu sự cho cụ. Gia đình em và các anh chị cũng yên tâm”. Bây giờ thì cụ bà Bùi Thị Thạch – vợ nhà thơ Quang Dũng, tác giả của bài thơ “Tây Tiến”, “Mắt người Sơn Tây” một thời – đang ngồi đây, yên lặng nhìn về phía xa xăm để nhớ về những câu thơ một thời làm lay động lòng người, lay động lòng bà: “Vầng trán em mang trời quê hương / Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương /Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm /Em đã bao ngày em nhớ thương?”.
Đến ngày 08 tháng 01 năm 2015 (mồng 8 tháng Chạp năm Ất Mùi) thì Thảo báo tin, bà Bùi Thị Thạch – vợ nhà thơ Quang Dũng đã ra đi.
Khi đề cập đến nhà thơ Quang Dũng từng có một thời gian sống ở vùng kinh tế mới Hà Nội tại Lâm Đồng, nhà thơ Phú Đại Tiềm có kể lại câu chuyện của anh gặp ông Lê Khắc Kỳ (bút danh Lê Kỳ Nam) ở Thanh Trì. Nhà thơ Phú Đại Tiềm cho biết:
“Thấy nhà thơ Lê Kỳ Nam nói tai nạn văn chương, tôi chợt nhớ đến nhà thơ Quang Dũng, có thời ông cũng vào vùng đất này ở với con gái Bùi Phương Hạ dạy học ở vùng kinh tế mới Hà Nội.
– Thế nhà thơ Quang Dũng vào Nam Ban ông có biết không? Tôi hỏi ông.
Câu hỏi của tôi bỗng đánh thức ông nhớ về những lần gặp nhà thơ Quang Dũng. Ông nói luôn: – Có!
Rồi ông kể:
Một sáng, mặt trời lên chừng hơn một con sào, tôi đang lúi húi nhặt cỏ thì thấy một ông già tay chống cây gậy đi tới. Khi gần giáp mặt tôi, ông vui vẻ lên tiếng:
– Chào ông lão, mệt chưa, sắp nghỉ giải lao chưa?
– Cũng sắp, ông đi đâu vậy?
Nhà thơ Lê Kỳ Nam hỏi lại nhà thơ Quang Dũng:
– Tôi mới vào chơi trong này, thấy cảnh trí nơi đây tươi đẹp hấp dẫn nên đi thăm thú xem bà con mình làm ăn ra sao thôi – nhà thơ Quang Dũng đáp lời.
Dừng tay, tôi mời ông vào nhà uống nước.
Nhà thơ Lê Kỳ Nam kể:
Ông Quang Dũng theo tôi vào nhà, chưa kịp uống nước ông đã tự giới thiệu – tôi là Quang Dũng, còn ông xin cho biết quý danh? Thực ra nghe danh đã lâu nhưng chưa lần nào được tiếp diện nhau. Sau khi biết danh nhau rồi, ông và tôi ngồi chuyện trò vui vẻ thân mật. Ngồi được một lát thì nhà thơ cáo từ, hẹn lần khác đến chơi lâu hơn. Ông bắt tay tôi rồi chào tạm biệt.
Bẵng đi nửa tháng, nhà thơ Quang Dũng lại đến chơi, nhà thơ Lê Kỳ Nam nói tiếp: – Lần này Quang Dũng ngồi lâu hơn, chúng tôi như gặp được người đồng cảm, thông cảm nhau hơn, nên câu chuyện rôm rả thoải mái, cởi mở như không còn khoảng cách ý tứ gì nhiều. Rồi lần thứ ba, thứ tư…
Tôi cắt ngang lời ông:
– Xin lỗi nhà thơ, thế ông có nhận xét gì về nhà thơ Quang Dũng không?
Ông cười nói tiếp:
– Thời ấy vẫn đang ở thời kỳ bao cấp nên chuyện thơ cũng có phần dè dặt, không như bây giờ. Bây giờ thì thoáng hơn, đơn giản, cốt có thơ, nhiều khi cũng nhạt… Quang Dũng, ông là người đi nhiều, từng trải, giản dị, khiêm nhường… Ở đời luôn có hai mặt, cùng một thứ sản phẩm, lúc này người ta chuộng, khi khác người ta phế bỏ. Nhưng những thứ gì hay, quý thì bao giờ vẫn có người yêu, thơ cũng vậy. Có cái lạ mà tôi không hỏi Quang Dũng là lần nào đến nhà tôi chơi, bao giờ cũng thấy ông một tay cầm gậy, tay kia xách đôi dép, đến sân mới để dép xuống đất, xỏ vào chân rồi mới đi vào nhà. Tôi đoán nhà thơ Quang Dũng tiết kiệm chăng, ông sợ đi nhiều, giày dép chóng hỏng nên tiết kiệm, thời bao cấp mà. Hồi ấy vùng kinh tế mới hiếm có nhà lát sân, lát nhà bằng gạch, hoặc láng xi măng như bây giờ, cơm còn thiếu nói chi đến lát nền nhà, cho nên khách đi vào nhà mà chân vẫn mang giày dép là chuyện bình thường, nên lại thôi không hỏi ông nữa. Nhà thơ Lê Kỳ Nam vui vẻ nói thêm, “Tây Tiến” bi hùng, tuyệt phẩm như thế mà người đẻ ra nó còn lao đao một thời, bây giờ lại được tung hô… Thế đấy, biết sao được. “Hạn” của tôi mà ở vào thời bây giờ chắc không đến nỗi điêu đứng đến thế, phải không anh?…
Có lần chú em Nguyễn Văn Bính đến nhà chơi, tôi hỏi chú, chú có biết nhà thơ Quang Dũng không? Em có biết, hồi nhà em ở Thanh Trì thuộc vùng kinh tế mới, nhà thơ Quang Dũng hay đến nhà chơi với bố em, nhưng em không dám hỏi chuyện vì ông ngang tuổi bố em, hơn nữa những lần đến chơi với bố, em chỉ việc đun nước cho hai cụ tâm giao, rồi đi làm. Thường những lúc ngồi cùng cả nhà, bố em vẫn nói sau mỗi lần nhà thơ Quang Dũng đến chơi, bố em bảo: Bác Quang Dũng là người có văn hóa, giao thiệp lịch sự khiêm nhường, dễ gần gũi…
Để khách quan hơn, tôi tìm hiểu thêm về nhà thơ Quang Dũng trong thời gian ông ở Nam Ban vùng kinh tế mới Hà Nội xưa với con gái ông là cô giáo Bùi Phương Hạ. Một trong những người tôi gặp và hỏi chuyện, ông đại tá Nguyễn Danh Tiềm, nguyên phụ trách mảng an ninh vùng kinh tế mới Hà Nội tại Lâm Đồng. Qua xác minh và tham vấn ý kiến của nhân dân cũng như nhà trường nơi cô giáo Bùi Phương Hạ công tác, ông Nguyễn Danh Tiềm cho hay: – Tôi có gặp nhà thơ Quang Dũng và qua phản ảnh của nhân dân thì ông Quang Dũng là người vui vẻ thân thiện, tình cảm và dễ hòa đồng, đặc biệt ông rất tôn trọng mọi người…
Thiển nghĩ, việc làm thơ quả không đơn giản chút nào. Làm thơ cho hay đã khó. Làm thơ để vừa lòng mọi người, làm để thời nào cũng yêu quý… là cả một vấn đề cực khó; họa may có thánh mà cũng được mấy ai ở trên đời?”.
Đã một lần hẹn với các anh ở vùng đất Tân Hà – Lán Tranh không đến được, tôi cứ áy náy và cảm thấy mình là người có lỗi. Lần này, tôi quyết định dứt khoát phải vào thăm các anh cho bằng được.
Trước khi rời Đà Lạt, tôi đã mấy lần gọi điện thoại cho nhà thơ Nguyễn Đăng Chấn, Nguyễn Gia Tình – những nhân vật có uy tín ở vùng đất này, không mảy may có tiếng trả lời. Các anh máy một nơi, người một nẻo; tuổi già đến nhanh quá.
“Lòng đã quyết, chí đã bền”, tôi quyết tâm đi về nơi ấy. Tôi thường tâm niệm: “Cứ đi rồi sẽ đến”… và như duyên tiền định, tôi đã được gặp các anh trong một ngày nắng đẹp trên cao nguyên.
Tôi đến nhà anh Hà Đức Ái – vợ chồng anh đã về Sài Gòn. Tôi tìm đến nhà anh Nguyễn Gia Tình – của khóa, anh đi vắng. Tôi đến nhà anh Nguyễn Đăng Chấn – rất may, anh và vợ của anh đang có nhà. Dạo này, anh Chấn ốm quá. Hai anh em gặp nhau mừng lắm, vì đã mấy năm nay tôi chưa có dịp về lại vùng đất này. Và từ đây, tôi có thêm nhiều số điện thoại, nhiều con người từng một lần gặp gỡ với nhà thơ Quang Dũng. Nhà thơ Quang Dũng từng đến nhà họ, từng ăn cơm cùng họ, từng ngủ trong nhà họ và cùng họ rong ruổi trên khắp đồi nương, trên những con đường gồ ghề đất đỏ ba-dan, những lưng chừng đồi cỏ tranh cháy xém, lội suối băng đèo… của một vùng đất mới người Hà Nội ở Lâm Đồng “sinh sau đẻ muộn” – Tân Hà-Lán Tranh. Phần lớn cư dân ở đây đều là người Đan Phượng, Thạch Thất, Phúc Thọ, Hoài Đức của tỉnh Hà Tây cũ. Khi thành phố Hà Nội mở rộng, các huyện của Hà Tây nghiễm nhiên trở thành con dân của thủ đô.
Tháng 9 năm 1979, lần đầu tiên đoàn cán bộ tiền trạm và đội xây dựng huyện Thạch Thất đã tình nguyện lên cao nguyên và 4 tháng sau (15.01.1980), 34 hộ dân của Phùng Xá, Thạch Xá, Bình Phú, Hữu Bằng, Chàng Sơn, Liền Quan, Kim Quan, Phú Kim… đã có mặt. Rồi tiếp theo là bà con ở các huyện Phúc Thọ, Hoài Đức, Đan Phượng cũng lên đường… xây dựng nên Tân Hà – Lán Tranh ngày càng sầm uất, trù phú như hôm nay.
Từ căn nhà nhỏ nằm trên trục đường chính, gia đình anh Nguyễn Đăng Chấn ở đây đã hơn 35 năm. Anh gọi điện thoại cho anh Lê Xuân Liễu, nguyên trước đây là chủ nhiệm Hợp tác xã Đan Phượng ghé tìm và chở anh Nguyễn Gia Tình – nguyên là cán bộ đại diện Ban đón dân khu vực 2 của Ban kinh tế mới Hà Nội tại Lâm Đồng qua nhà anh Chấn.
Anh Nguyễn Đăng Chấn kể:
“Khoảng đầu năm 1984, anh Nguyễn Gia Tình tăng cường vào Tân Hà và ở ngôi nhà sơn vôi màu vàng của ban xây dựng vùng – mà anh em quen gọi là “Nhà vàng”. Anh Tình ở một mình; vợ con đều còn ngoài Bắc chưa vào.
Một hôm, anh Nguyễn Gia Tình yêu cầu tôi với anh Nguyễn Văn Tám, phó đài truyền thanh kinh tế mới Vùng Kinh tế mới Hà Nội đưa nhà thơ Quang Dũng đi thăm các hợp tác xã và bà con trong khu vực Tân Hà – Lán Tranh.
Trước đó, anh Nguyễn Văn Tám được ban lãnh đạo vùng giao nhiệm vụ đưa nhà thơ Quang Dũng bằng xe U-oát từ Nam Ban vào Tân Hà. Nhà thơ Quang Dũng ở “nhà vàng” với anh Nguyễn Gia Tình gần một tuần, mới giao nhiệm vụ cho chúng tôi tiếp đón.
Chúng tôi đưa nhà thơ Quang Dũng vào thăm bà con hợp tác xã Thạch Thất 1, dùng một bữa cơm với bà con; rồi cùng anh Tám dìu nhà thơ qua con suối ở hợp tác xã Đan Phượng để vào nhà anh Lê Xuân Liễu, ông Thành Nam, ông Thu Điều…
Nhà thơ Quang Dũng là người sống giản dị, chân thành, không cầu kỳ. Tôi quen gọi nhà thơ bằng bác. Bác bảo chúng tôi đừng làm thịt gà tốn phí, chỉ cho ăn ngọn rau bí xào tỏi và có sẵn ngô nếp luộc cho mấy quả là được rồi. Bác đi thăm nhiều nhà, nói chuyện thân tình như người thân; ai cũng quý mến bác.
Tôi chưa thấy lần nào bác tự xưng mình là nhà thơ; không khoe khoang khoác lác, không kể về mình – nhất là những tháng ngày kháng chiến chống Pháp. Chỉ biết bác vào Lâm Đồng, vì có người con gái đang dạy học ở Nam Ban. Trong dịp đó, tôi cũng mong bác có một bài thơ viết về vùng đất này để làm kỷ niệm, nhưng không biết về sau bác có làm được không.
Trong gia tộc nhà tôi, có người anh – con ông bác họ – là luật sư, tiến sĩ Nguyễn Đăng Xiển ở Pháp hay về Việt Nam có đến thăm gia đình tôi ở Tân Hà. Tôi khoe với ông anh là mình có tham gia hội thơ. Ông anh hỏi:
– Thế chú có làm bài thơ nào hay không?.
Tôi bảo: – Không.
Ông anh lại nói:
– Tao là luật sư, nhưng tao thì hay đọc thơ Việt Nam, nhưng thích và thuộc nhất vẫn là thơ Quang Dũng.
– Đúng rồi, vì ông anh là người Hà Tây mà. Tôi trêu.
Thế rồi ông anh – con ông bác họ – đọc cho tôi nghe bài thơ Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây…
Tôi bảo:
– Em làm thơ, nhưng em không thuộc thơ bằng anh.
Ông anh lại trêu tôi:
– Chú người Hà Tây làm thơ mà không thuộc thơ Quang Dũng, thế mà gọi là nhà thơ…
Nói xong, ông anh cười sảng khoái.
Chúng tôi rất quý nhà thơ Quang Dũng vì ông rất gần gũi. Ông coi chúng tôi như con cháu trong nhà. Tính tình vui vẻ, cởi mở, khiêm tốn của nhà thơ Quang Dũng càng làm cho chúng tôi dễ gần gũi hơn, thân tình hơn”.
Anh Nguyễn Gia Tình là người đại diện Ban xây dựng vùng kinh tế mới Hà Nội tại Tân Hà – Lán Tranh. Anh Nguyễn Gia Tình là người đặc biệt. Hiện nay, anh có gần 1000 giai thoại văn nghệ sĩ cả nước mà anh chịu khó sưu tầm hàng chục năm qua, kể từ ngày anh tốt nghiệp trường sư phạm đi dạy học cho đến khi về Lâm Hà, làm đến chức Trưởng ban Tuyên giáo huyện ủy, rồi nghỉ hưu.
Anh bảo:
– Cuối năm nay tớ sẽ cho in các giai thoại văn nghệ để… vui với tuổi già. Trong các giai thoại mà tớ sưu tầm được, có các giai thoại về Quang Dũng tớ sẽ gửi văn bản lên Đà Lạt cho cậu.
Tưởng anh “họ hứa”, hóa ra về đến nhà đã có ngay thư chuyển phát nhanh (EMS) của anh với 3 giai thoại Quang Dũng. Anh nói và giữ lời.
Anh Nguyễn Gia Tình kể:
“Nhà thơ Quang Dũng ngủ với tớ gần một tuần ở “Nhà vàng” (Nhà vàng là trụ sở của ban đón dân Khu vực 2 vùng kinh tế mới Hà Nội tại Lâm Đồng). Ông cao to như Tây nhưng chân đi tập tễnh phải chống gậy. Tớ hay đưa ông lên chợ Tân Hà chơi. Nhà thơ Quang Dũng bảo với tớ – lần này lên là để viết về Tây Nguyên, viết về bà con thủ đô đi kinh tế mới – đó là nguện vọng cuối đời.
Ở trong “nhà vàng”, tớ sắp xếp cho nhà thơ Quang Dũng một phòng, tới một phòng. Thời kỳ đó, ở đây không có điện, tớ mang cho nhà thơ một cây đèn dầu, một bao diêm, lại có thêm một quẹt ga – hàng quý hiếm lúc đó – nửa đêm ông thức dậy có cái thắp sáng để viết. Ăn uống thì cùng ăn với tớ. Lúc ấy tớ có cô Mỵ làm tạp vụ cho Ban; cô ấy nấu cơm và làm thức ăn cho tớ với nhà thơ dùng. Nhà thơ Quang Dũng thích ăn cái gì thì ông bảo. Ông thích nhất vẫn là ngọn rau bí xào tỏi, hay luộc chấm với nước mắm; thích ăn ngô nếp luộc. Ăn xong mấy quả ngô, bao giờ ông cũng xin thêm một bát nước ngô luộc. Dạo đó, ở vùng kinh tế mới Hà Nội đều được mùa ngô nếp. Ngô nếp to, dài, hạt mẩy rất ngon.
Nhà thơ Quang Dũng có hỏi tớ về chiếc thuyền đậu trên con suối gần nhà thờ Thanh Bình, huyện Đức Trọng để làm gì vậy? Tớ bảo: Đó là nơi người ta đặt bình đo nước của trạm thủy văn Đức Trọng. Những gì thắc mắc trên đường đi, nhà thơ đều hay hỏi cho biết.
Nhà thơ Quang Dũng có kể cho nghe về những tháng ngày đang đi học phải “xếp bút nghiêng, theo việc đao binh”, theo đoàn quân Tây Tiến, làm bài thơ Tây Tiến năm 1948… nhưng ông rất ít kể về mình.
Tớ vẫn gọi nhà thơ Quang Dũng bằng bác. Khi đến thăm bà con ở xã Đan Phượng, bác Quang Dũng nói “rặc” tiếng Đan Phượng ở quê nhà. Mọi người ai cũng ngạc nhiên. Có người bảo: Sao bác ra Hà Nội đã lâu, đi qua nhiều vùng miền mà vẫn giữ được giọng nói làng Phùng như thế! Bác cười, rồi lại tiếp tục sử dụng phương ngữ của quê hương mình làm mọi người ai ai cũng ấm lòng.
Khi chuẩn bị đi thăm các nơi, bác Quang Dũng bảo tớ luộc thêm mấy quả ngô nếp để mang theo. Ăn xong mấy quả ngô, uống một bát nước ngô luộc, bác Quang Dũng cẩn thận gói thêm mấy quả trong chiếc khăn mùi xoa (mouchoir). Tớ cũng chu đáo, gói thêm mấy quả ngô nếp và đựng nước ngô luộc vào bi đông mang theo. Đến chỗ nào có bóng cây mát, lại bảo bác dừng, cánh tớ ngồi chén.
Tớ với nhà thơ Quang Dũng nói chuyện rất hợp nhau. Bởi tớ là giáo viên dạy văn, cũng biết làm thơ nên đêm đêm trước khi nhà thơ đi ngủ, hai bác cháu lại nói chuyện văn chương. Nhà thơ Quang Dũng hay khen tớ. Ông bảo: Ta chẳng thấy tay “lãnh đạo” nào như “tay” Tình, mà dân đi qua cứ réo: Ông Tình ơi, ông ăn cơm chưa? Hôm nay ông ăn cái gì đấy! Ta chẳng thấy ai như “ông”…
Phải nói, nhà thơ Quang Dũng là một người hiền lành. Ông to cao như thế, nhưng xem ra cũng nhút nhát. Ông sống đơn giản, thật thà và rất được mọi người ở đây quý mến. Tớ ở đây làm “lãnh đạo” nên nơi nào có nhậu, thì các ông bà lại ra mời, thế là bác cháu lại lên đường. Nhưng bác Quang Dũng chỉ khoái món ngọn rau bí, rau lang luộc thôi. Thịt gà, thịt heo, thịt chó bác đều dùng được, nhưng ăn rất ít.
Hôm ở nhà, bác Quang Dũng đọc cho tớ nghe bài thơ “Bạn cũ Sư đoàn” bác viết cho một người bạn trước đây cùng là đồng đội của bác ở Tây Tiến. Bác bảo: Bài thơ này tớ viết ở Nam Ban. Bài thơ rất lạ; vẫn mang hào khí Tây Tiến nhưng gần với thời sự lúc bấy giờ hơn. Trong thơ, bác Quang Dũng đưa vào thơ cả ngô vàng Tây Nguyên Tài Năng 11, sắn khoai và cả gạo Sình chỉ có ở vùng kinh tế mới, nhưng đọc lên vẫn hay”.
Đang nói, bỗng dưng giọng nói của anh Nguyễn Gia Tình chùng xuống.
“Cuộc đời nhà thơ Quang Dũng thật vất vả. Chính bài thơ “Tây Tiến” đã làm khổ ông. Ngày tớ còn đi học trường sư phạm, bài thơ “Tây Tiến” phải loại bỏ, cho rằng là tư tưởng tiểu tư sản, người ta kỵ nhất là câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”, là “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc…”.
Ngày còn ở Hà Nội, tớ hay chơi thân với nhà thơ Trần Lê Văn vì ông vốn là cán bộ ty văn hóa Hà Tây quê tớ; sau này con trai ông Trần Lê Văn là Trần Nguyên Đán cũng vào đây dạy học trước khi trở lại Hà Nội. Con gái nhà thơ Quang Dũng cũng thế. Các thầy giáo, cô giáo mới ra trường đều phải tình nguyện lên đây. Muốn trở lại thủ đô để được vào biên chế, được hộ khẩu phải qua “cửa ải” thử thách ở vùng kinh tế mới Hà Nội. Cháu Trần Nguyên Đán hay xuống nhà tớ chơi. Trước đây, ở Ty văn hóa Hà Tây nhà thơ Trần Lê Văn cũng “vướng” một vài câu thơ trong nhóm “Nhân văn giai phẩm”, nên khi về làng, không gọi là Trần Lê Văn mà đổi lại tên là Trần Sơn Nam cho nó lành.
Ở Hà Nội, nhà thơ Quang Dũng, Trần Lê Văn và Ngô Quân Miện là ba nhà thơ thân nhau nhất, nên chuyện gì về nhà thơ Quang Dũng, tớ thường được nhà thơ Trần Lê Văn kể cho nghe”.
Nói chuyện với nhà thơ Nguyễn Gia Tình, tôi hiểu thêm những tháng ngày nhà thơ Quang Dũng đến với Tân Hà – Lán Tranh. Nhưng lại muốn biết nhiều hơn, hiểu nhiều hơn, nên tôi yêu cầu anh Lê Xuân Liễu, nguyên chủ nhiệm hợp tác xã Đan Phượng cho biết thêm:
“Hôm đó tôi đang uống rượu ăn thịt chó ở nhà ông Hồng Kỳ, anh Tám với anh Chấn đưa nhà thơ Quang Dũng đến gặp tôi. Mời nhà thơ uống rượu rồi đưa ông về nhà tôi. Lúc bấy giờ tôi mơ hồ lắm về nhà thơ Quang Dũng, tôi chỉ nhớ lõm bõm mấ câu bài thơ “Tây Tiến”, đọc lên còn thấy sai sai.
Gia đình tôi làm một con gà mái tơ to nhất đàn thiết đãi nhà thơ, nhưng ông cứ can ngăn. Ông bảo có rau lang, rau bí, rau su su luộc lên là được rồi. Dọn ra mâm, nhà thơ Quang Dũng chỉ gắp một miếng thịt gà. Còn suốt buổi, ông chỉ ăn rau với nước chấm ngon lành. Đêm đó, nhà thơ Quang Dũng ngủ ở nhà tôi và tâm sự về chuyến đi này của ông là viết một bút ký tạm lấy tên là “Con rồng xanh” về những con người Hà Nội Thăng Long trên quê hương mới; nhưng ông vẫn khiêm tốn bảo: Không biết có làm được không.
Tôi không biết gì về nhà thơ Quang Dũng, nên trong lòng vẫn cứ nghi ngại, không rõ “ông” này trình độ như thế nào mà dám viết “con rồng xanh”?. Cho đến một lần ra thị trấn Nam Ban chơi, tôi có kể cho kỹ sư Biên là có gặp nhà thơ Quang Dũng, thì kỹ sư cho biết: Ông Quang Dũng là một người rất giỏi về thơ. Về sau này, ban đêm nghe trên đài “đọc chuyện đêm khuya” mới biết ông là nhà văn, nhà thơ, là người có tài, sống dân dã, giản dị. Lúc đó, tôi mới biết về ông và cảm thấy xấu hổ khi nghĩ không đúng về ông.
Buổi tối ông ngủ chung giường với tôi. Sáng hôm sau, vợ tôi thổi cơm, tôi lại làm thức ăn – tôi là đầu bếp giỏi của gia đình. Nhà thơ Quang Dũng ăn được hai bát cơm, uống nước xong, thì ông bảo tôi đưa đến thăm những người già tóc bạc trong hợp tác xã để ông có dịp nói chuyện ở quê mới.
Tôi quyết định đưa ông sang nhà ông Thành Nam – một người hay chữ, đọc nhiều sách ở Đan Phượng trên quê mới.
Hai ông gặp nhau nói chuyện rất vui. Còn tôi xin phép ra về”.
Nghe anh Liễu kể đến đây, tôi đề nghị anh đưa tôi đến thăm ông Nguyễn Thành Nam. Hai anh em cùng đến, nhưng cửa nhà khóa, đành phải về. Tôi dặn anh Liễu, ngày mai anh ghé sang nhà ông Nguyễn Thành Nam, anh nháy máy điện thoại rồi tắt máy, tôi gọi lại.
Sáng hôm sau, anh gọi rồi tắt máy, tôi gọi lại và gặp anh Nguyễn Thành Nam; nhưng nghe tiếng được tiếng mất, không rõ, nên tôi xin hẹn hôm sau xuống tận nhà để được “diện kiến dung nhan” và có thời gian nhiều hơn. Anh Thành Nam đồng ý.
Một con người mực thước, chỉnh chu trong trang phục. Hóa ra anh Nguyễn Thành Nam vốn dĩ là thầy giáo, là y tá một thời ở quê nhà. Biết nhau qua thơ văn, nhưng ban đầu, tôi vẫn gọi ông Thành Nam là bác. Về sau gọi bác bằng anh cho gần gũi, thân tình. Ông Nguyễn Thành Nam bằng tuổi anh trai tôi, lại lấy vợ trẻ hơn 30 cái xuân xanh, nên tôi gọi bằng anh cho “thuận tình”. Anh Nguyễn Thành Nam tâm sự:
“Năm 1943 -1944, tôi đã rời Hà Nội vào Sài Gòn vì có người chị rất đẹp lấy chồng vào trong ấy. Chị ấy bảo tôi vào cho có chị có em. Nhà chị ở trước chợ Tân Định. Đến năm 1946, khi Nam Bộ kháng chiến tôi gia nhập đoàn thiếu nhi, đi lung tung khắp thành phố. Về sau rời Sài Gòn, tôi cùng ba người khác đi bộ 6 ngày liền từ Sài Gòn ra đến Phan Thiết mới có tàu hỏa về Bắc. Dọc đường, nhất là đoạn qua miền Trung, tàu hỏa phải dừng để tăng-bo vì bị máy bay Pháp dội bom làm hư hỏng đường ray. Về đến nhà, cả nhà mừng quá, ôm nhau khóc. Tôi lại tham gia đại đội cảm tử quân ở quê nhà, đi trinh sát, thăm dò quân Pháp để báo cho đại đội. Hôm nay chỉ có ông Liễu với nhà báo, tôi mới cho xem bản xác nhận tôi là cảm tử quân do ông Chu Toanh – đại đội trưởng ký.
Năm 1948, tôi tham gia trung đoàn 48, đại đoàn 320. Khi gặp bác Quang Dũng vào đây ghé thăm tôi, tôi rất ngạc nhiên, vì ở ngoài đời tôi với bác chưa gặp nhau. Tôi chỉ biết bác qua văn thơ, đặc biệt là bài hát “Ba Vì mờ cao” do bác ấy sáng tác cứ vang mãi trong chiến khu những năm kháng chiến chống Pháp. Nay gặp nhau đây, tôi với nhà thơ Quang Dũng nói chuyện với nhau rất tâm đắc.
Tôi hỏi: – Bác vào đây bằng phương tiện gì?
– Mình đi tàu hỏa bình thường – bác Quang Dũng trả lời.
– Bác đi vé ngồi hay vé nằm? – Tôi lại hỏi.
– Vé ngồi, làm gì có vé nằm.
Tôi lại hỏi: – Khi ngủ, bác ngủ thế nào?
– Nói thật với cậu. Sướng nhất là ngủ gật.
Nói chuyện một hồi, thì biết bác Quang Dũng quê ở làng Phượng Trì. Làng tôi là Tân Hội – cách làng bác Quang Dũng một cánh đồng khoảng hơn hai cây số theo đường chim bay. Nói chuyện lan man, tôi biết bác cũng thuộc trung đoàn 48, lúc đó tôi ở đội công tác vũ trang hoạt động trong vùng địch hậu. Tôi vẫn nhớ mãi những địa danh mà nhà thơ Quang Dũng đề cập trong bài thơ Tây Tiến đều là những vùng đất tôi đã đi qua. Ngày bác Quang Dũng đến nhà tôi, vợ chồng tôi mời bác ở lại dùng cơm, nhưng bác từ chối vì còn phải đi thăm nhiều cụ già lớn tuổi hơn nữa”.
Đang nói chuyện hào hứng, bỗng dưng anh Nguyễn Thành Nam xin lỗi vào phòng trong. Một thoáng anh ra, mang theo một cuốn sách “Những đoạn đời nghệ sĩ” của Lý Khắc Cung do nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành năm 2006, trong đó có bài viết “Vài nét về nhà thơ Quang Dũng”, ở trang 291, như sau:
“Nhà thơ Quang Dũng là nhà thơ mà ở ta, hầu như ai cũng biết. Các độc giả ở mọi vị trí và thân phận trong xã hội luôn ca ngợi và quý mến cái chân tài của nhà thơ uyên bác và tài hoa qua các tác phẩm “Tây Tiến”, “Bài thơ sông Hồng”, “Mây đầu ô”.v.v… Tính từ 100 năm trở lại đây (1904-2004) người ta có thể xếp nhà thơ ngồi cùng chiếu với một số nhà thơ hàng đầu của Việt Nam và thế giới.
Thơ ông có chất sử thi, hoành tráng, bi hùng, giàu cảm xúc, tràn ngập yêu thương. Ở những bài có chất sử thi, ông thường dùng những từ ngữ nguy nga mà độc đáo như: áo bào, viễn xứ, sông Mã gầm lên, bỏ quên đời, gục lên mũ súng, anh bạn dãi dầu.v.v…
Thơ ông đầy ma lực, cứ ngân nga mãi trong tâm hồn người đọc. Ông say mê thơ Đường. Trong bài thơ “Tây Tiến” rất hay của ông thấp thoáng hình ảnh của ba bài thơ Đường kiệt tác là “Lương châu từ” của Vương Hàn, “Lũng Tây hành” và “Đạo thục nan” của Lý Bạch… Nhà thơ Quang Dũng thích nghe xẩm, thích nghe nhạc. Không chỉ thế, ông còn hát hay, sáng tác ra bài “Ba Vì mờ cao” làm bài tủ cho nghệ sĩ Kim Ngọc. Ông còn sử dụng được banjo, guitare và sáo.
Dạo ấy, anh Quang Dũng nhận lệnh vào hoạt động trong nội thành. Cửa nhà thanh đạm, chị Thạch tần tảo nuôi con. Cuộc sống ở vùng tự do đầy khó khăn, vất vả. Chị được biết anh phải vào thành chừng hai, ba tuần lễ, bèn chuẩn bị quần áo, thức ăn khô và vài thứ lặt vặt. Anh Quang Dũng gạt đi: “Không phải mang gì cả. Đến địa điểm sẽ được phát quần áo và mọi thứ cần thiết”. Chị Thạch thở phào: “Hay quá, không phải đi va”. Tuy vậy cũng xoay được cho anh vài bao thuốc lá, mấy gói trà, khăn mặt, áo lót.v.v…
Khoảng giữa trưa, anh Quang Dũng lên đường. Hai vợ chồng ngồi đối diện với nhau, uống nước sau bữa cơm. Anh tỏ ra bịn rịn. Trong lòng chị Thạch rộn lên nhiều suy nghĩ. Phần vì sợ bom đạn bất kỳ. Lại sợ vì nơi thành phố có nhiều điều cám dỗ. Anh lại là nhà thơ mà nhà thơ thường có cái tạng “Mười hai bến nước”. Nhưng chị vội dẹp ngay đi những điều lơ mơ ấy, nở nụ cười tiễn anh:
– Nhà đi nhé!
– Tôi đi đây – anh khẽ đáp.
Anh dúi vào tay chị một miếng giấy nhỏ có mấy lời dặn li. Chị không giở ra đọc ngay. Đến khi anh đi xa rồi, chị mới giở ra xem. Thơ rằng:
“Em đừng mong mỏi một kho tàng
Đừng ước lầu cao, giấc mộng sang
Anh đi, chỉ một hồn đơn chiếc
Bạc, vàng là những nét phong sương…”
Lúc anh Quang Dũng trở về, chị Thạch khóc lên vì sung sướng. Anh bảo: “Tôi đã về trọn vẹn. Nhà ạ…”.
Nhà thơ Quang Dũng là con người nặng lòng với gia đình, bè bạn. Người ta dễ mến anh, vì anh vui tính, hay kể chuyện, biết nhiều chuyện và khéo gợi chuyện, lại hiểu đời. Ông có rất nhiều bạn. Trong số bạn thân của anh có nhà sư T.M. Ông này là một nhà sư yêu nước, có những hoạt động bí mật. Điều này không mấy ai biết. Người ta cứ gọi ông là ông sư bạn của ông Quang Dũng. Ông là nhà sư cao đạo, nhiều chữ nghĩa, nói chuyện rất hay. Ông giỏi cả văn lẫn võ. Những động tác múa của ông khi làm lễ cũng “chạy đàn”, “phá ngục”, “làm chay”… có những nét được liệt vào nghệ thuật biểu diễn siêu phàm đến nỗi một số chuyên gia múa cũng phải nể. Nhà sư và nhà thơ thường phải có những cuộc gặp mặt nhau. Không có không được. Nhưng bẵng đi một dạo chừng 3- 4 năm họ không gặp nhau. Chiều hôm đó, anh Quang Dũng trở lại chùa thăm bạn, mới biết nhà sư đã viên tịch. Anh buồn quá, thắp hương rồi quỳ xuống khóc bạn. Sau đó, anh không nói một lời, anh ra vườn chùa ngắm cây đại khẳng khiu, khóm ngâu, khóm mộc rồi trở vào nhà hậu, viết bài thơ “Hương cố nhân”:
Đã mấy năm trời xa cố nhân
Nào hay tin hạc đã xa trần
Bồ đề núi cũ thay màu áo
Thôn vắng, đường xa lạnh dấu chân.
Đã hay thế sự buồn dâu bể
Thiền môn đành hẹn, xếp kinh luân
Bữa nay kinh bỗng vương hồn tục
Hương lại gây mùi hương cố nhân.
Anh Quang Dũng rất thích về quê. Mỗi khi về, trước hết anh nghỉ chân ở cái cầu mái ngói đầu làng, uống bát nước vối, bắt vài câu chuyện với mọi người trong quán rồi mới về nhà. Anh lại còn la cà mấy xóm, ngõ và ra thăn đồng. Năm 1936, anh có bài thơ “Thôn Phượng Trì”:
Tôi nhớ năm xưa dạo cánh đồng
Thấy cô cắt cỏ ở Thôn Trung.
Lom khom bờ ruộng, lia liềm hái
Sa mạc nắng đưa thật não nùng.
Thấy tôi, nàng vội đứng lên trông
Đôi mắt xinh xinh chợt ngượng ngùng
Tà áo đang bông, nàng vội khép
Lộ làn yếm thắm, giải lưng hồng.
Tôi đã ra đi đã mấy đông
Trở về cố lý, dạo thăm đồng
Bên bờ ruộng ấy, người không thấy
Chỉ thấy bên bờ, cỏ mọc bông!”…
Không những đến nhà các anh Nguyễn Thành Nam, Lê Xuân Liễu, Nguyễn Gia Tình… bác Quang Dũng còn ghé thăm hợp tác xã Thạch Thất 1. Ở đó có ông phó chủ nhiệm trẻ năng động: Nguyễn Duy Phác.
Hôm tôi đến thăm nhà anh – một ngôi nhà nằm sâu trong mảnh vườn hoa trái rất đẹp, anh Nguyễn Duy Phác tâm sự:
“Đúng là hữu duyên, hôm đó các anh trong Ban đón dân đưa bác Quang Dũng đến nhà tôi, ngủ lại với tôi một đêm. Tôi gọi nhà thơ Quang Dũng bằng bác vì bác bằng tuổi của bố tôi. Sáng hôm sau, bác bảo tôi cho bác đi thăm bà con và cảnh quan trong hợp tác xã. Lúc bấy giờ chợ Tân Hà còn hoang sơ lắm, hàng hóa không có gì nhiều, không biết mua cái gì để lót bụng. Tôi mua một cây mía to để bác làm gậy để chống, mua thêm bánh chưng mang theo, thì bác rầy la. Bác bảo: Trên đường đi có biết bao nương rẫy, có sắn nhổ lên lùi vào lửa là có bữa “chén” ngon lành, mua bánh chưng gì cho tốn kém. Nhưng tôi vẫn mang bánh chưng theo, lỡ còn ăn dặm dọc đường. Tôi đưa bác Quang Dũng qua hết địa giới hợp tác xã Thạch Thất 1, sát với Đan Phượng 2 thậm chí gần với xã Tân Hội của huyện Đức Trọng. Trên đường đi, khi lủi bụi rậm của cây rừng, khi qua suối, lúc đi trên đá đất ba-dan đỏ choạch, bác cứ đi. Khi nào mệt thì ngồi nghỉ chân. Bác khen con gái Sơn Tây đẹp, vì thế mà bác có bài thơ “Đôi mắt người Sơn Tây”. Có lúc trong mắt bác Quang Dũng gợn buồn. Bác bảo lần này cố gắng vào đây cũng như cuối đời viết cái ký về người Hà Nội trên quê mới.
Khi đi qua cầu gỗ gập ghềnh, tôi thường đi sau lưng bác để phụ trợ khi bác lỡ ngã. Bác Quang Dũng to cao lừng lững, đúng là bộ đội Tây Tiến. Lần thứ hai tôi lại gặp bác ở Tân Hà. Lần thứ ba gặp bác Quang Dũng ở Nam Ban. Cái duyên gặp bác Quang Dũng, sâu lắng trong tôi là bác không hề nề hà trong ăn uống. Rau cải, bông bí, ngọn bí, rau lang, sắn lùi… đều tốt cho sức khỏe. Cảm ơn bác, tôi viết bài thơ “Theo chân bác Quang Dũng”. Bài thơ có bốn câu và được in vào tập thơ riêng:
“Duyên đời đón bác được đôi lần
Gian nan dậy sóng chớ lùi chân.
Tây Tiến – tiền thân – đời bác trải,
Thái bình này – cháu chớ tần ngần”.
Bài thơ cũng là cách răn dạy mình.
Một ngày ròng rã, bác Quang Dũng đi khám phá vùng đất mới, khám phá khe suối, đồi cây, đi xuyên rừng. Lúc đó đường sá ở Tân Hà bụi đỏ mù trời khi nắng lên, bùn bám những khi mưa xuống, lầy lội… nhưng bác Quang Dũng không nề hà, vẫn đi về…
Trở lại thị trấn Đinh Văn – huyện lỵ của Lâm Hà, tôi ghé thăm anh Nguyễn Văn Tám, chị Nguyễn Thị Điểm. Anh Tám từng là công nhân xây dựng sân bay Nội Bài, từng là công nhân quốc phòng trên đường Trường Sơn, đi học văn hóa và trở thành phóng viên của báo Giao thông vận tải từ năm 1978 đến năm 1982. Một lần vào Lâm Đồng chụp hình ở nông trường quốc doanh số 4, anh mê mảnh đất này và làm đơn tình nguyện vào lập nghiệp nơi này. Anh và tôi cùng về đài truyền thanh vùng kinh tế mới Hà Nội. Tôi về trước anh khoảng 10 ngày. Sau đó, anh được phân công tăng cường ở Tân Hà – Lán Tranh. Chị Nguyễn Thị Điểm nguyên là Hội trưởng hội phụ nữ của vùng, sau đó là chủ tịch ủy ban mặt trận của huyện Lâm Hà.
Tôi đã có lần gặp bác Quang Dũng ở nhà anh Tám dưới cánh đồng tranh. Muốn xuống đây phải kiên trì bám theo bờ cỏ dốc ông Trần Đình Tải – phó công an vùng. Mùa mưa trơn trợt dốc cao rất khó đi. Vậy mà bác Quang Dũng đã nhiều lần qua đây để thăm và trò chuyện với bố mẹ của anh Tám. Bố anh Tám là cụ Nguyễn Văn Tiểm sinh năm 1919. Cụ có học tiếng Pháp nên được dân làng trọng vọng mời làm lý trưởng, nhưng cụ từ chối. Cụ bảo: Làm lý tưởng thì dễ gây tội ác với dân nên cụ đầu quân vào lính khố xanh. Khi Pháp – Nhật đánh nhau, cụ bỏ lính khố xanh chui vào một chiếc thùng phuy, lật lên nằm trốn trong đó. Khi tạm ổn, cụ chui ra và đầu quân vào bộ đội Việt Minh, được cấp trên giao làm giám thị trại tù binh Âu Phi ở Thái Nguyên. Khi ốm đau, cụ trở thành bệnh binh và về địa phương tham gia làm kế toán của xã. Mẹ của anh Tám là bà Nguyễn Thị Luân, cùng tuổi với ông Tiểm, cùng quê Văn Khê, huyện huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên (Bây giờ là huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội). Bố anh Tám với nhà thơ Quang Dũng tuổi tác gần nhau nên khi gặp nhau đều có nhiều chuyện vui để kể. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã ngủ ở đây hai đêm với cụ Tiểm. Một lần tôi nhớ mãi 4 câu thơ mà nhà thơ Quang Dũng đọc cho chúng tôi nghe như một triết lý sống của nhà thơ:
“Dặn vợ có cà đừng gắp mắm,
Bảo con bớt gạo thổi thêm khoai.
Nếu ai có bảo rằng hà tiện,
Ta chẳng phiền ai, chẳng lụy ai”.
Đến nhà anh Tám, chị Điểm bác Quang Dũng đều mê ngô nếp luộc. Ngô chín, bác ăn mấy bắp liền, uống một bát nước ngô luộc, rồi trải khăn mu-soa ra, bác Quang Dũng gói thêm mấy quả ngô luộc mang đi đường. Đường đi khó, phải chống gậy, nhưng bác lúc nào cũng vui; nụ cười lúc nào cũng nhân hậu, dễ mến. các con của anh, cho đến tận bây giờ vẫn còn nhắc đến nhà thơ Quang Dũng – như một người thân của gia đình mình, dẫu rằng nhà thơ Quang Dũng đã đi xa gần 30 năm rồi.
Ngoài thành phố Đà Lạt, thị trấn Nam Ban, khu Đông Anh quen thuộc, thì Tân Hà – Lán Tranh, Nông trường Quốc doanh số 3, Phúc Thọ, Hoài Đức trên cao nguyên là mảnh đất gắn bó với nhà thơ Quang Dũng trong những năm 1983, 1984 khi ông đặt chân lên đây. Một vùng đất mà ông rất đỗi yêu quý với những giống ngô lai Mehico vàng Tài Năng 11, gạo Sình Đinh Tỵ, Lán Tranh…thơm ngon mà ông đã được thưởng thức. Dấu chân của ông còn in mãi trên những triền đồi, dốc núi, khe sâu không có điểm dừng như kiếp giang hồ mà ông đã chọn…
Có lẽ sẽ không đầy đủ vì chưa thể trọn vẹn cho những chuyến đi, nhưng với tôi phần nào cũng nhẹ nhõm lòng khao khát muốn trở lại đây một lần để ghi lại những gì mà nhà thơ Quang Dũng đã gắn bó nơi này…Phía trước vẫn còn nhiều điều chưa nói hết về một con người mà mình yêu quý.
Từ xưa nay, các sách viết về nhà thơ Quang Dũng thường lấy năm sinh là 1921; có sách ghi cụ thể là ngày 03.05.1921. Ngày sinh này được sử dụng là dựa vào hồ sơ kê khai lý lịch của nhà thơ Quang Dũng. Trong những ngày này, khi đọc những trang bản thảo, sổ tay ghi chép của nhà thơ Quang Dũng, con gái của ông – nhà giáo, nhà thơ Bùi Phương Thảo đã phát hiện một thông tin quan trọng, khi bố của cô ghi rõ ngày sinh của mình là 11 tháng Chín năm Tân Dậu (Theo lịch Vạn Niên là ngày 11.10.1921). Các con của nhà thơ Quang Dũng cũng đã đi đến thống nhất là lấy ngày này là ngày sinh chính thức của cha mình. |