Ngày 1-11 âm lịch Kỷ Hợi 2019 tức 26-11-2019, cả nước tổ chức dâng hương tưởng niệm Đức Vua-Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn. Tại chốn tổ Chùa Vĩnh Nghiêm ( xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, Bắc Giang ).
Giã từ ngai vàng, về với cõi Phật
Thượng tọa Thích Thiện Văn, Trưởng Ban trị sự Phật giáo tỉnh Bắc Giang, Trụ trì Chùa Vĩnh Nghiêm cho chúng tôi biết : nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trong diễn văn khai mạc Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc 2008 tại Hà Nội đã khẳng định:“Việt Nam là đất nước đa tôn giáo mà đạo Phật là tôn giáo có mặt rất sớm từ gần 2000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng Từ bi, hỷ xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời phấn đấu vì hạnh phúc an vui cho con người. Trong các thời đại, thời nào lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những nhà Sư đại đức, đại trí đứng ra giúp đời, hộ quốc, an dân. Đặc biệt lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công lao của vị Vua anh minh Trần Nhân Tông có công lớn lãnh đạo nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Khi đất nước thái bình, Người nhường ngôi từ bỏ giàu sang, quyền quý, tìm đến nơi non cao Yên Tử để học Phật tu hành, sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm, một dòng Thiền riêng của Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay.”
Nhân dịp kỷ niệm 711 năm ngày nhập niết bàn của Phật hoàng Trần Nhân Tông, đức vua Phật của dân tộc Việt, ôn lại cuộc đời của Ngài để chúng ta tự hào về con người Việt, văn hóa, Phật giáo Việt Nam. Theo sách Đại Việt Sử ký toàn thư: Trần Nhân Tông sinh vào ngày 11 – 11 năm Mậu Ngọ và mất ngày vào ngày 01 -11 năm Mậu Thân, tên “húy là Khâm, con trưởng của Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu, sinh năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8, tháng 11, ngày 11, được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử. Ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, băng ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức Lăng. Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần”.
Sau khi chiến thắng giặc ngoại xâm Nguyên Mông, Vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, từ bỏ ngai vàng, vào Yên Tử tu hành rồi hiển Phật… .Trần Nhân Tông một Hoàng Đế minh quân kỳ tài, góp phần tô thêm trang sử vàng chói lọi của dân tộc thời nhà Trần, tạo đỉnh cao nền văn minh Đại Việt. Thuở nhỏ, nhà vua thường theo vua cha lên chơi núi Yên Tử, sớm bộc lộ chí xuất gia tu hành. Năm 16 tuổi, được vua cha lập làm Hoàng Thái tử… Năm 21 tuổi, Ngài được vua cha truyền ngôi báu (1297) và đã làm vua 14 năm. Ngài là bậc minh quân có biệt tài kinh bang tế thế, có công lớn trong việc lãnh đạo toàn dân hai lần kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi, xây dựng đất nước phồn vinh. Tháng 7-1299, Ngài cho xây dựng một am thiền trên núi Yên Tử gọi là Ngự Dược Am và theoThánh Đăng Lục tháng 10 năm ấy Vua len núi Yên Tử xuất gia tu hành, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Hơn 14 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng, cũng là 14 năm vua Nhân Tông tu hành. Đức tổ ta là Điều Ngự Nhân Tông Hoàng đế ra khỏi cõi trần, thoát vòng tục lụy, bỏ chốn cung vua ra giữa sơn môn… Có điều, nhà vua không phải cứu đời theo cách của một vị Vua, mà theo cách của bậc thánh nhân, bậc vĩ nhân. Bởi vì làm vua chỉ chăn dân trăm họ, làm Phật cứu độ cả muôn loài. Ngài vượt qua cái bình thường để trở thành cái phi thường. Cho nên, hàng ngàn năm qua, bao triều đại thịnh suy trị vì đất nước, bao người đã làm vua. Song có ai được mọi người ngưỡng vọng, tôn thờ và nhớ mãi như Phật hoàng Trần Nhân Tông? Vua Trần Nhân Tông về Yên Tử, bởi nơi này thuở trước, đã lưu danh kỳ tích An Kỳ Sinh tu tiên.Trên non Yên Tử, Ngài hoàn thiện hệ thống giáo lý củ phái Trúc Lâm. Giáo lý Trúc Lâm đã trở thành nền tảng tư tưởng và đạo đức của thời đại hoàng kim triều Trần, giai đoạn Phật giáo là Quốc giáo. Từ chức vụ cao sang của Nhà Vua, Vua Trần Nhân Tông trở về ngôi tôn quý Nhà Phật. Vua từ cái nhất thời, hữu hạn mà trở về cái vô hạ, vĩnh hằng.
Phật hoàng Trần Nhân Tông với chốn tổ Vĩnh Nghiêm-BắcGiang
Thời Trần có ba trung tâm đầu não của Phật phái Trúc Lâm là Hoa Yên (Yên Tử), Quỳnh Lâm (Đông Triều) và Vĩnh Nghiêm. Hoa Yên vẫn được xem như kinh đô, còn Quỳnh Lâm, Vĩnh Nghiêm là hai vệ tinh lớn nhất của kinh đô Phật giáo Yên Tử Đại Việt dưới thời Trần. Trong đó, Phật hoàng Trần Nhân Tông và đại thiền sư Pháp Loa có vị trí độc tôn và vai trò đặc biệt với sự hình thành, phát triển chốn tổ Vĩnh Nghiêm. Truyền thuyết kể rằng, vào thời Trần, vùng Yên Dũng (Bắc Giang) còn là rừng núi rậm rạp, vua Trần Nhân Tông cùng đoàn tùy tùng đi du ngoạn, cũng là để xem xét các địa thế hiểm yếu nơi cửa ngõ vùng phía Bắc kinh thành Thăng Long, nhằm xây dựng phòng tuyến chuẩn bị chống giặc Nguyên – Mông. Đến khu vùng La, ngựa của nhà vua bỗng hí vang và gõ móng dừng lại không chịu bước tiếp. Nhà vua lấy làm lạ, hỏi ra mới biết đất này vốn là lưng một con rùa, vốn có một ngôi chùa nhỏ từ rất lâu đời. Ngắm thế có sông núi giao hòa, vượng khí sung mãn, lại có chùa thiêng tọa lạc, vua cho đây là một duyên may đưa Người đến đất này liền cho sửa sang chùa thật khang trang, đặt tên là Vĩnh Nghiêm tự . Từ đó, mặc dù bận việc nước, thỉnh thoảng Người lại về thăm ngôi chùa thiêng này. Đến khi nhường ngôi cho Trần Anh Tông lên làm Thái thượng hoàng, Người từ kinh thành ngược sông đến chùa Vĩnh Nghiêm rồi qua sông Lục nhập Huyền Đinh sơn về non thiêng Yên Tử tu trì. Sau 7 năm chuyên tâm tu hành đắc đạo, Người hạ sơn và cho mở mang chùa Vĩnh Nghiêm, sai đệ tử là Pháp Loa Đồng Kiên Cương thường xuyên đến đây giảng đạo. Sử sách nước nhà chép rằng: “Ngày mồng một tháng Giêng năm 1308, Vua Trần Nhân Tông sai Pháp Loa đến huyện Siêu Loại tại Báo Ân Thiền tự khai giảng trụ trì. Tháng tư năm ấy, Ngài đến chùa Vĩnh Nghiêm tại Lạng Giang kiết hạ và sai Pháp Loa khai giảng trụ trì. Chính Ngài giảng Truyền Đăng lục, bảo quốc sư Đạo Nhất vì chúng giảng kinh Pháp Hoa. Bãi hạ, Ngài vào núi Yên Tử, chỉ để lại mươi vị thị giả thường theo Ngài. Sau khi Phật hoàng viên tịch, lên lãnh đạo Tăng Già, Pháp Loa đã đến trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm. Văn bia tháp Viên Thông cũng như sách Tam tổ Thực Lục cho biết: “Tháng 9, năm Quý Sửu (1313), thiền sư Pháp Loa phụng chiếu đến cư trú tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang, đặt văn phòng Trung ương Giáo hội tại đó, quy định mọi chức vụ tăng sĩ trong Giáo hội, kiểm tra tự viện và làm sổ tăng tịch. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam tăng sĩ có hồ sơ tại Giáo hội Trung ương”. Như vậy, Phật hoàng Trần Nhân Tông, người có công mở mang, khai sáng chùa Vĩnh Nghiêm. Pháp Loa tôn giả là người phát triển chùa Vĩnh Nghiêm thành vệ tinh của Kinh đô Phật giáo Yên Tử – trung tâm hành chính của Giáo hội Phật giáo Đại Việt. Kỷ niệm 711 năm ngày nhập niết bàn của Phật hoàng Trần Nhân Tông là một sự kiện có nhiều ý nghĩa. Tăng ni phật tử chùa Vĩnh Nghiêm và du khách thành kính dâng hương tưởng niệm Phật hoàng Trần Nhân Tông. Ông vua đã khước từ phú quý, vinh hoa, tước vị cao sang, giã biệt chốn phồn hoa, lên non xanh Yên Tử tu hành, trút bỏ một cuộc sống của người thường để trở thành một đức Đại Hùng Đại Lực, Đại Bi, Đại Trí và Đại Dũng, xứng danh là Đức Phật của dân tộc Việt Nam.)
Bài và ảnh: Hoàng Lê