Mùa khô năm 2019-2020 ĐBSCL bị hạn gay gắt với nước mặn xâm nhập sớm hơn so với mùa khô năm 2015-2016, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sản xuất. Tuy nhiên, năm nay có sự chuẩn bị của các cấp chính quyền, nhất là người dân chủ động sáng tạo trong ứng phó nên cuộc sống vẫn diễn ra khá bình tĩnh.

Lửa cháy lúa, hồ trữ ngọt nhiễm mặn
Chiều 21/02, nắng ở xã Khánh Bình (Trần Văn Thời, Cà Mau) gay gắt như mấy tháng qua, đồng ruộng khô quắt nhưng lúa đã chín nên rộn ràng không khí thu hoạch. Trong đó, lúa của ba hộ các ông Đỗ Thanh Dân, Bùi Trường Giang, Phạm Văn Biên chuẩn bị thuê máy vào gặt. Chợt vang tiếng kêu “lửa cháy lúa”, nhiều người ùa ra thấy ruộng lúa chín bốc cháy, khói mù mịt. Mọi người cố dập lửa không được, vội dùng máy cày xới đất giữa ruộng lúa để chặn ngọn lửa. Ông Dân buồn bã, ruộng lúa của gia đình ông hơn 9.000 m2 chỉ còn 2.000 m2. Cả ba hộ cháy mất 21.000 m2 lúa. Nguyên nhân cháy, có người đốt đồng sau thu hoạch cách xa cây số nhưng nắng to gió lớn nên lửa cháy lan ra những ruộng đã gặt, tới lúa chưa gặt. Phó Chủ tịch UBND xã Khánh Bình Dương Minh Sang thừa nhận, khô hạn gây cháy ruộng lúa chín như thế là lần đầu tiên ở Cà Mau.
Ở tỉnh Bến Tre, hồ trữ nước ngọt Kênh Lấp được đầu tư xây dựng tốn 85 tỷ đồng, đã nhiễm mặn sau 6 tháng đưa vào sử dụng. Đây là hồ trữ nước ngọt lớn nhất ĐBSCL tính đến hiện nay, dài gần 5 km, rộng từ 40-100 m, vốn là con kênh đào chạy qua ba xã Tân Xuân, Phước Tuy và Phú Ngãi (huyện Ba Tri) nhưng bị lấp hai đầu và năm 2017, khởi công làm hồ trữ ngọt. Hồ có sức chứa gần một triệu khối nước để phục vụ sinh hoạt và sản xuất cho dân trong vùng; sau khánh thành đã có đường ống cấp nước cho 500 hộ dân xã Tân Xuân, đang dự kiến mở rộng hệ thống ống tới khoảng 5.000 hộ nữa.
Ông Nguyễn Văn Hùng ở xã Tân Xuân kể: “Nhà tôi đã có đường ống nước từ hồ Kênh Lấp, giá 8.000 đồng mỗi khối, nhưng tháng nay nước bị nhiễm mặn nên chỉ dùng tắm giặt, còn ăn uống phải mua nước khác giá cao gấp chục lần. Nhiều nhà không có tiền mua nước khác thì bấm bụng xài đỡ vì nước dưới kênh rạch đã mặn chát”.
Quản lý nhà máy nước hồ Kênh Lấp là ông Nguyễn Đình Dũng cho biết, nước không còn đạt tiêu chuẩn dùng cho sinh hoạt vì đã nhiễm mặn gần 2%o, nhưng cả vùng đã bị mặn vây quanh nên ráng cầm cự. Nước trong hồ còn phân nửa, khoảng 500.000 m3, mỗi ngày bơm cấp chừng 2.000 m3, cố gắng qua mùa hạn mặn.
Phó chủ tịch UBND huyện Ba Tri Dương Văn Chương nhận định, hồ vừa đưa vào sử dụng, mới rửa được lớp nước bề mặt, còn tầng đáy và nền đất tích tụ mặn từ nhiều năm chưa rửa được, khi nước ít mặn đã xì lên. Dù sao, nhờ có hồ cũng đỡ, hạn mặn năm nay không thua mùa khô 2015-2016 nhưng thiệt hại giảm. Huyện Ba Tri có hơn 12.000 ha đất lúa, khoảng 100.000 con bò (nhiều nhất tỉnh Bến Tre), mùa hạn mặn năm 2015-2016 có 8.000 ha lúa bị thiệt hại, người dân phải mua nước ngọt giá cao cho người và cả bò.
Đối diện tỉnh Bến Tre bên kia sông Tiền là tỉnh Tiền Giang, có đoạn kênh trữ ngọt vừa làm cũng bị nhiễm mặn. Đoạn kênh Nguyễn Tấn Thành dài 5 km tại xã Bình Đức (huyện Châu Thành) được làm đập ngăn mặn bằng thép có bề mặt rộng 76 mét, đập thép lớn nhất ĐBSCL hiện nay, vốn đầu tư 11 tỷ đồng, hợp long ngày 20/02. Theo UBND tỉnh Tiền Giang, kênh trữ ngọt để bổ sung nguồn nước cho nhà máy nước Đồng Tâm phục vụ TP. Mỹ Tho và các huyện vùng dự án ngọt hoá Gò Công.
Thế nhưng, sau hợp long mấy ngày, đoạn kênh trữ ngọt đã phát hiện bị nhiễm mặn đến 2%o. Thi công đập là Công ty TNHH MTV Bê tông TICCO và Chủ tịch HĐQT Trần Hoàng Huân lý giải, khi hợp long đập thép đã chọn thời điểm nước ròng nhưng công trình lớn và phức tạp nên thi công kéo dài, nước mặn bên ngoài lớn quá đã tràn vào. Vừa chặn kênh lại phải tìm cách xả mặn để trữ ngọt trở lại, cho thấy hạn mặn thật sự gay gắt.

Đập tạm và cống kiểm soát mặn
Cuối tháng 02/2020, theo Bộ NN&PTNT, nước mặn 4%o vào các cửa sông đã sâu hơn năm hạn mặn lịch sử 2016. Ranh mặn 4%o trên sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây sâu hơn cùng kỳ năm 2016 từ 4-6 km, trên sông Hàm Luông và sông Hậu sâu hơn 3-10 km, vùng ven biển Tây trên sông Cái Lớn sâu hơn 5 km. Để có nước ngọt cho đời sống, các tỉnh ven biển đã phải đắp đập tạm chặn sông, rạch nhằm ngăn mặn, giữ ngọt.
Địa phương đang phải đắp nhiều đập tạm nhất ĐBSCL là tỉnh Kiên Giang với 196 đập (đắp mới 103 đập, còn lại gia cố đập cũ), trong đó có 3 đập bằng cừ thép. Các huyện ven biển đều phải đắp nhiều đập tạm như Giồng Riềng đắp mới 56 đập, Gò Quao đắp mới 44 đập và gia cố 32 đập, Kiên Lương đắp mới 3 đập và gia cố 2 đập, An Biên gia cố 23 đập, An Minh gia cố 10 đập, Giang Thành gia cố 1 đập…
Ngày 19/02, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp thị sát Kiên Giang khi tỉnh này công bố tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn trên diện rộng. Giám đốc Sở NN&PTNT Kiên Giang Nguyễn Văn Tâm báo cáo: “Xâm nhập mặn mùa khô năm nay sớm hơn mùa khô 2015-2016 khoảng 20 ngày, sớm hơn năm 2019 khoảng 2 tháng. Diện tích lúa đông xuân năm nay 289.026 ha, có gần 600 ha lúa bị thiếu nước tưới cuối vụ làm giảm năng suất từ 30-70%. Nguyên nhân chủ yếu là sản xuất lúa đan xen vùng nuôi tôm, sử dụng chung kênh thủy lợi nên bị ảnh hưởng”.
Kiên Giang có hệ thống cống Cái Lớn và Cái Bé do Bộ NN&PTNT đầu tư, đang thi công, theo Giám đốc Tâm thì khi hoàn thành sẽ giúp tỉnh giảm 60-66 đập tạm, giảm hàng chục tỷ đồng mỗi năm. Bởi khi đó nước mặn được kiểm soát khá căn cơ ở hai cửa sông lớn nhất bờ biển phía Tây, hỗ trợ sản xuất cho Kiên Giang và cả tỉnh Cà Mau, Hậu Giang.
Về các cống kiểm soát mặn liên tỉnh do Bộ NN&PTNT đầu tư những năm gần đây, bước đầu đã cho hiệu quả. Cống âu thuyền Ninh Quới trên kênh Quản lộ Phụng Hiệp, ở xã Ninh Quới A (Hồng Dân, Bạc Liêu), khởi công ngày 26/11/2018, kế hoạch tháng 4/2021 mới hoàn thành nhưng tháng 2/2020 đã vận hành, sớm hơn dự kiến 13 tháng. Có mặt kiểm tra hôm 09/02, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường nói: “Cống âu thuyền Ninh Quới không chỉ kiểm soát được nước mặn xâm nhập vào vùng canh tác ngọt mà còn hỗ trợ ổn định nước mặn cho vùng nuôi tôm nên cần nghiên cứu để xây dựng thêm các âu thuyền trong khu vực”.
Ở mạn biển Đông vùng ĐBSCL, nhiều cống kiểm soát mặn cũng sớm hoàn thành. Cống Vũng Liêm kiểm soát mặn lớn nhất tỉnh Vĩnh Long, khởi công ngày 17/9/2018 ở huyện Vũng Liêm, cùng với cống Tân Dinh ở huyện Trà Ôn (Vĩnh Long) và cống Bông Bót ở huyện Cầu Kè (Trà Vinh) thuộc tiểu dự án Nam Mang Thít có tổng mức đầu tư hơn 746 tỷ đồng, nhằm hỗ trợ kiểm soát mặn cho 28.459 ha đất ở hai tỉnh. Chưa đến thời hạn hoàn thành nhưng từ tháng 01/2020, các cống đã vận hành thử. Trong đó, cống Bông Bót có 3 cửa rộng tổng cộng 60 mét, khởi công tháng 8/2018, kế hoạch đến tháng 8/2020 mới hoàn thành nhưng ngày 10/01/2020 đã vận hành.
Nhờ có cống Bông Bót mà Phó chủ tịch UBND xã An Phú Tân (Cầu Kè, Trà Vinh) Phan Hoàng Nam cho biết, năm nay nước mặn đến sớm nhưng thiệt hại thấp. Ngày 10/12/2019, độ mặn tại khu vực cống là 4,9%o, cao hơn thời điểm năm 2015 nhưng canh tác và nuôi trồng thủy sản ở xã đến nay vẫn ổn định.
Ngày 13/02, Bộ NN&PTNT báo cáo Thủ tướng Chính phủ: “Trong mùa khô 2019-2020, Bộ NN&PTNT cùng với các địa phương đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án đầu tư xây dựng do Bộ quản lý vượt kế hoạch từ 6-13 tháng, đã đưa 5 dự án vào tạm thời vận hành phòng, chống xâm nhập mặn từ tháng 12/2019, tháng 01/2020, như cống âu thuyền Ninh Quới (hệ thống thủy lợi Quản Lộ- Phụng Hiệp); trạm bơm Xuân Hòa (tỉnh Tiền Giang); các cống Tân Dinh, Bông Bót, Vũng Liêm (Hệ thống thủy lợi Nam Mang Thít), 18 cống kiểm soát mặn thuộc Dự án Bắc Bến Tre giai đoạn 1; nạo vét kênh Mây Phốp – Ngã Hậu…Các công trình này đã chủ động trực tiếp kiểm soát xâm nhập mặn khoảng 83.000 ha và hỗ trợ kiểm soát ảnh hưởng xâm nhập mặn đến 300.000 ha”.

Người dân chủ động sáng tạo
Chiều 18/12/2019, ông Nguyễn Văn Chinh chở chiếc túi trữ nước từ trụ sở xã Phú Sơn (Chợ Lách, Bến Tre) về nhà. Ông cho hay: “Năm nay nhà tôi trồng 500 gốc mai để bán Tết nhưng mấy hôm rày đã thấy nước mặn mấp mé dưới kênh nên phải mua túi này trữ nước ngọt, chớ khi mặn đến chân có khi trở tay không kịp”. Tết đến ông đã thành công.
Túi chứa nước làm bằng vải bạt nhiều lớp, có van để bơm nước vào, lấy nước ra; do doanh nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh thiết kế và sản xuất, đầu mùa hạn mặn năm nay đưa xuống huyện Chợ Lách trình diễn. Túi có nhiều loại, rộng từ 2-3 m, dài 6-13 m, dung tích 15 – 30 m3, giá 1,7-2,6 triệu đồng. Trong hai ngày trình diễn, nhiều nhà vườn đã mua.
Chủ tịch UBND xã Phú Sơn Nguyễn Thanh Sơn nhận xét, túi trữ nước có ưu điểm là nước không bốc hơi, để chỗ nào cũng được, dùng xong mùa này cuộn lại cất cho mùa sau. Xã Phú Sơn có hơn 100 ha hoa kiểng phục vụ Tết, năm nay hạn mặn lớn nhưng nhà vườn chủ động nên vẫn ổn định. Trưởng phòng NN&PTNT huyện Chợ Lách Bùi Thanh Liêm cho biết, người dân nhạy bén áp dụng cái mới nên ứng phó hạn mặn có hiệu quả.
Bên cạnh mua túi trữ nước ngọt, nhiều người dân làm ao lót bạt trữ nước. Ông Đặng Văn Oanh ở xã Long Thới (Chợ Lách) có khu vườn hơn 20.000 cây giống, vừa làm ao dài 16,5m, rộng 4m, đào sâu 0,8m và đắp nổi thêm, lót bạt có thể chứa 70 m3 nước. Ông kể, chi phí làm ao chừng 3 triệu đồng gồm thuê người đào, mua bạt về lót, dọn góc vườn làm ao và hàng ngày thuê sà lan lấy nước ngọt trên sông đổ vào. Nước ngọt giữa mùa hạn mặn phải đi xa mới có, tùy con nước, nơi gần cũng chục cây số còn có hôm phải đi dăm chục cây số. Nước ngọt phụ thuộc triều cường nên bất kể ngày đêm, canh con nước rồi cầm cái đo độ mặn đi đến nơi nào có nước ngọt đạt tiêu chuẩn là dừng lại bơm vô sà lan chở về. “Tính ra mỗi khối nước có giá 60.000-70.000 đồng. Mỗi ngày, nhà tôi xài hết khoảng 30 khối nước cho sinh hoạt và tưới cây, dư ra chia lại bà con láng giềng. Qua mùa hạn này chắc tốn vài trăm triệu đồng nhưng giữ được khu vườn vài tỷ”, ông Oanh mỉm cười.
Cùng ở xã Long Thới, ông Lê Tự Gương mua máy lọc nước mặn thành nước ngọt để sử dụng. Nước mặn bơm dưới kênh vào chiếc túi, lắng bùn, cho qua máy lọc để ra nước ngọt. Giá chiếc máy 30 triệu đồng, một giờ lọc ra 0,3 – 0,5 m3 nước ngọt, một ngày được 7 – 12 m3. “Tính ra giá nước lọc rẻ hơn so với bây giờ mua nước ngọt một khối đã mất trăm nghìn đồng và càng kéo dài hạn mặn giá càng cao nữa. Có máy lọc, sinh hoạt cũng như chăm sóc vườn cây hoàn toàn chủ động”, ông Gương tâm đắc.
Xuống huyện Cù Lao Dung (Sóc Trăng) nằm giữa sông Hậu ở cửa biển, chịu tác động rất mạnh của hạn mặn cũng có nhiều nông dân làm ao trữ nước ngọt. Cù Lao Dung trước đây trồng nhiều mía nhưng rồi thích ứng với biến đổi khí hậu đã chuyển sang cây khác và nuôi tôm, cá kèo. Trên 12.000 ha đất nông nghiệp được phân thành vùng ngọt, lợ, mặn; theo đó, thủy lợi cũng chuyển đổi phục vụ đa mục tiêu.
Mùa hạn năm nay được dự báo gay gắt từ sớm nên Trạm quản lý thủy nông thường xuyên theo dõi hệ thống thủy lợi, khi có nước ngọt thì mở cống, nước mặn lên đóng lại. Huyện còn chuẩn bị 2 trạm bơm cơ động công suất lớn để sẵn sàng lấy nước ngọt dự trữ. Còn người dân có nhiều cách trữ nước ngọt, trong đó đã làm nhiều ao.
Ông Đoàn Văn Hoàng ở xã An Thạnh Nam làm ao trữ nước ngọt rộng 4 m, dài hơn 10 m, lót bạt chứa gần 40 m3 nước phục vụ 5.000 m2 rau màu. “Vườn của tôi trồng dưa hấu, bí đỏ, ớt và cũng như nhiều nhà khác đã đầu tư hệ thống tưới tiết kiệm, giảm được nửa lượng nước tưới so với thủ công múc đổ ào ào trước đây. Bây giờ một ngày tưới chỉ tốn 4-5 m3 và có ao trữ nước là chăm rau màu khỏe re”, ông Hoàng tin tưởng.
Một hình ảnh rất mới của nông dân ĐBSCL ứng phó hạn mặn năm nay, thường cầm trong tay thiết bị đo độ mặn. Khi trò chuyện, để minh chứng cho lời nói, họ hay đo độ mặn nước trong ao hoặc dưới kênh. “Chúng tôi mơ ước rồi đây đầu tư được thiết bị đo độ mặn cố định ở những nơi cần thiết để theo dõi trên điện thoại di động, đi đâu cũng theo dõi được như dân nuôi tôm thâm canh”, họ cười sảng khoái.
Báo cáo Thủ tưởng Chính phủ ngày 13/02/2020, Bộ NN&PTNT đề xuất các giải pháp lâu dài phòng chống hạn mặn cho ĐBSCL: “Đầu tư lắp đặt thiết bị giám sát độ mặn tự động để kịp thời thông tin, chủ động triển khai các biện pháp ứng phó phù hợp với từng giai đoạn, nhất là ứng phó với tác động của thời tiết cực đoan. Ưu tiên nguồn lực đầu tư xây dựng hoàn thiện khép kín các hệ thống thủy lợi đã có, nạo vét các kênh trục chuyển nước, xây dựng các trạm bơm cột nước thấp trên kênh, xây dựng hạ tầng thủy sản,…để chủ động kiểm soát triều, xâm nhập mặn; cải tạo các cửa cống lấy nước hiện có ở vùng ảnh hưởng triều, bảo đảm chủ động vận hành lấy nước ngọt, nước mặn và tiêu thoát nước. Các dự án đề nghị ưu tiên: Cái Lớn – Cái Bé giai đoạn 2; hoàn thiện hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre, Nam Bến Tre, Nam Măng Thít, Bảo Định, Nhật Tảo – Tân Trụ,…Khuyến khích chuyển đổi mạnh cơ cấu cây trồng, đặc biệt vùng không chủ động nguồn nước, thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn sang phát triển nông nghiệp đa dạng (thủy sản – cây ăn quả – lúa), đáp ứng nhu cầu của thị trường, chuyển từ phát triển theo số lượng sang chất lượng. Xây mới, nâng cấp, sửa chữa các công trình cấp nước tập trung (Cà Mau 30 công trình, Sóc Trăng 03 công trình, Kiên Giang 05 công trình); mở rộng, kéo dài tuyến ống cấp nước cho cho các hộ dân khu vực lân cận (Long An mở rộng cho 32.350 hộ dân, Bến Tre mở rộng 40 km đường ống, Kiên Giang mở rộng cho 7.880 hộ dân), Tiền Giang mở rộng 200 km đường ống. Xây dựng các hồ trữ nước ngọt từ hệ thống sông, kênh cụt (Trà Vinh, Long An, Bến Tre, Hậu Giang); khai thác nước ngầm tại các khu vực nguồn nước ngầm bảo đảm về chất lượng, trữ lượng”. |
SÁU NGHỆ