23 C
Hanoi
Thứ Tư, 28 Tháng 5, 2025

Độc đáo từ những dàn chiêng của các dân tộc tây nguyên

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là một loại hình văn hóa đặc sắc của các dân tộc từng sinh sống lâu đời nơi đây và đã được UNESCO công nhận và vinh danh là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại (năm 2005). Trải qua quá trình phát triển của lịch sử, các dân tộc trên vùng đất này đã sáng tạo nên những giàn chiêng đồ sộ với phong cách diễn tấu độc đáo khác hẳn với nghệ thuật cồng chiêng của các nước khác ở Đông Nam Á.
Một trong những yếu tố làm nên tính độc đáo của cồng chiêng Tây Nguyên là các dân tộc tại chỗ ở đây không tự chế tác cồng chiêng mà mua lại của các dân tộc khác rồi tập hợp thành bộ, chỉnh âm sao cho phù hợp với thị hiếu âm nhạc và thẩm mỹ của dân tộc mình tạo nên những giàn cồng chiêng để diễn tấu tập thể. Điển hình nhất phải kể đến là các giàn chiêng tre , chiêng Knah của người Êđê, chiêng Tha của người Brâu, chiêng Aráp của người Giarai, chiêng Goong của người Bana, chiêng 6 của người Mạ, người Cơho ở Lâm Đồng,..

Biểu diễn cồng chiêng tại Liên hoan nghệ thuật dân gian các dân tộc Tây Nguyên. Ảnh: T.B.D

• Chiêng tre của người Êđê có thể coi là loại chiêng cổ xưa nhất của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trước khi tìm đến với loại cồng chiêng được đúc bằng đồng của các dân tộc khác.
Từ những ống tre, nứa sẵn có của núi rừng, người Ê Đê đã sáng chế ra một loại chiêng rất độc đáo cho dân tộc mình.Chiêng tre được đồng bào gọi là “Ching – Cram”. Thông thường một giàn chiêng có từ 5 đến 7 hoặc 9 chiếc nhưng đôi khi giàn chiêng cũng có thể được biên chế tới 20 chiếc.Việc chế tác chiêng tre cũng khá cầu kỳ, phức tạp đòi hỏi nghê nhân phải là những người có tài năng và giàu kinh nghiệm. Đặc biệt là ở khâu chọn ống tre và thẩm âm. Mỗi cặp “Ching -Cram” gồm có một ống tre và một thanh tre và nó phải có giai điệu âm thanh tương ứng như một chiêng đồng vì thế các ống tre trong bộ chiêng cũng được cắt tạo với kích thước dài ngắn, lớn nhỏ khác nhau để có được những âm tương ứng.Thường các ống chiêng tre có độ dài từ 30-45 cm; đường kính khoảng từ 8- 10 cm. Ngoài ra, để có được bộ chiêng như ý, người nghệ nhân làm chiêng phải có đôi tai thính, chính xác để thẩm âm và đôi tay khéo léo để cắt gọt ống tre tạo được âm thanh như ý muốn.
• Chiêng Tha là một bộ chiêng khá đặc biệt và chỉ có ở người Brâu. Bộ chiêng(có biên chế ít nhất) chỉ có hai chiếc: chiêng vợ( chuar) và chiêng chồng( Jơ- Liêng), đường kính chiêng từ 45- 50 cm. Chiêng được đúc bằng một loại hợp kim rất lạ, khi đánh tiếng ngân vang, thánh thót hơn các loại chiêng khác. Đối với người Brâu, chiêng Tha không chỉ là nhạc cụ mà còn là “thần linh” và “tổ tiên của họ”, nên khi diễn tấu bao giờ họ cũng dùng những từ rất trân trọng như: “Gọ- Tha- pơi”( mời Tha nói) chứ không bao giờ dùng từ “đánh chiêng Tha” như khi sử dụng các nhạc cụ khác. Trước khi “mời Tha nói”, bao giờ người Brâu cũng “mời Tha ăn, mời Tha uống”. Cách diễn tấu chiêng Tha cũng rất đặc biệt, chiêng được treo trên xà nhà hoặc trên giá thả xuống cách mặt đất khoảng 10 cm. Khi diễn tấu, hai nghệ nhân ngồi bệt xuống đất ở hai bên đối diện nhau, chân duỗi thẳng. Người dùng dùi đực( Tơ- Lông- Tha) thúc vào mặt trong của chiêng và người dùng dùi cái(Giơ – Ra) gõ vào mặt ngoài của hai chiêng ( mỗi bộ chiêng Tha có hai dùi đực và hai dùi cái và có cấu tạo khác biệt nhau). Điều này cho thấy dấu vết của tín ngưỡng phồn thực thời nguyên thủy vẫn còn tồn tại trong văn hóa các dân tộc vùng Tây Nguyên. Chiêng Tha thường được sử dụng trong những dịp vui như: đón khách quí tới nhà, mừng lúa mới, nhà rông mới và không bao giờ sử dụng trong tang ma.

Festival Văn Hóa Cồng chiêng Tây Nguyên 2018 tại Gia Lai

• Chiêng Arap của người Giarai được coi là giàn chiêng “đồ sộ” nhất về số lượng gồm 23 chiếc,trong đó có 8 chiếc chiêng núm và 15 chiếc chiêng bằng với nhiều kích cỡ khác nhau. Cái lớn nhất có đường kính 48cm, cái nhỏ nhất có đường kính 20cm. Cách diễn tấu chiêng Arap cũng khá đặc biệt: người ta treo giàn chiêng lên một cây tre dài có hai người khiêng hai đầu, những người còn lại đi tới đi lui và dùng dùi đánh chiêng. Mỗi người có thể đảm nhiệm nhiều chiếc chiêng khi tấu.

Chiêng Arap (Ảnh tư liệu Bảo tàng Kon Tum)

*Chiêng Knah (tiếng Êđê gọi là Ching K’nah) gồm 10 chiếc. Giàn chiêng gồm 3 chiêng núm và 7 chiêng bằng. Tất cả các chiêng đều được đặt tên như người trong một gia đình.
Chiêng bằng lớn nhất được gọi là Cing Cêhar (chiêng ông), chiêng núm lớn nhất: Cing Ana (chiêng mẹ), chiêng núm nhỡ gọi là M’đuêh (bố), chiêng núm nhỏ: Mong (ông cậu). Còn 6 chiếc chiêng bằng còn lại được đặt tên theo thứ tự từ lớn đến nhỏ: K’nah Di (chị lớn); H’liang (chị thứ hai); Khơk (con trai lớn); H’luê Khơk (con trai thứ hai); H’liang (chị thứ ba); H’luê Khơk điêt (con trai út). Còn trống: H’gơr (người bà).
Chiêng lớn nhất có đường kính 70 – 80cm, chiêng nhỏ nhất có đường kính 45-50cm.
.Chiêng sáu của người Mạ và người Cơho
Giàn chiêng của người Mạ và Cơho ở Lâm Đồng được biên chế nhiều nhất là 06 chiếc nên còn gọi là: chiêng sáu. người Mạ, Cơho gọi chiêng sáu là “cing dròong”. Đây là loại chiêng bằng và chúng cũng được đặt tên theo thứ tự từ lớn đến nhỏ như: vàng(còn gọi là chiêng mẹ), rđơm(cha), dơn(anh cả), thoòng(anh kế), thơ(anh cận kế) và thê(em út). Khi diễn tấu chiêng sáu – “cing- dròong”, thì mỗi nhạc công sẽ dùng một chiêng và 6 người sẽ di chuyển theo vòng tròn, tay phải đấm (đánh) chiêng ở mặt ngoài, tay trái vừa giữ mặt trong vừa để chặn ngắt tiếng và tạo giai điệu. Đây cũng là một nét rất khác biệt giữa các dân tộc Bắc Tây Nguyên và Nam Tây Nguyên khi sử dụng loại nhạc cụ này. Thường ở vùng Bắc Tây Nguyên người ta dùng dùi gõ để kích âm vì thế mà dàn chiêng ở đây có thể biên chế với số lượng nhiều hơn và khi tấu thì âm thanh to, vang vọng , trầm hùng hơn.Trong khi đó thì các giàn chiêng của các dân tộc vùng Nam Tây Nguyên dùng nắm đấm để kích âm nên âm sắc cũng khác hơn do đó tiếng chiêng tuy không vang to nhưng người nghe có cảm giác âm thanh thật huyền ảo, kỳ bí như tiếng vọng của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ.
Cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng là tài sản vô giá về văn hóa lẫn âm nhạc. Đây chính là di sản văn hóa độc đáo của Việt Nam và của nhân loại. Nó không chỉ “có ý nghĩa về mặt vật chất cũng như những giá trị về nghê thuật đơn thuần mà nó còn là tiếng nói của con người và thần linh theo quan niệm vạn vật hữu linh”.(1)
Chú thích: (1) Theo Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên- Viện văn hóa- Thông tin. Nhà xuất bản Thế giới- Hà Nội 2006.

ĐOÀN BÍCH NGỌ
(Phó giám đốc Bảo tàng Lâm Đồng)

Bài viết liên quan

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM NHIỀU NHẤT