Bộ Tài chính vừa có văn bản gửi Bộ GT&VT, TN&MT, Xây dựng đề nghị xây dựng đề án thu phí bảo vệ môi trường đối với khí thải. Đồng thời, Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) phối hợp với chuyên gia trong Mạng lưới Không khí Sạch (VCAP) cũng đưa ra tài liệu ủng hộ việc thu phí khí thải để giảm ô nhiễm không khí với bốn đối tượng cụ thể.
Thực hiện Nghị quyết của Chính phủ
Bộ Tài chính đề nghị các bộ đề xuất phương án thu phí bảo vệ môi trường đối với khí thải thuộc ngành, lĩnh vực quản lý. Bao gồm đối tượng chịu phí, tổ chức cá nhân nộp phí; cơ quan thu phí, mức thu phí, cách tính phí, quản lý và sử dụng phí… gửi về Bộ TN&MT. Sau đó, Bộ TN&MT tổng hợp, chủ trì xây dựng đề án thu phí bảo vệ môi trường đối với khí thải; gửi Bộ Tài chính nghiên cứu xây dựng dự thảo Nghị định phí bảo vệ môi trường đối với khí thải, trình Chính phủ theo đúng quy định.

Bộ Tài chính cho biết việc này căn cứ theo Nghị quyết 01 ngày 1/1/2020 của Chính phủ. Theo đó, Nghị quyết có giao Bộ Tài chính chủ trì xây dựng Nghị định về phí bảo vệ môi trường đối với khí thải, thời gian hoàn thành trong năm 2020.
Cuối năm 2018, Bộ Tài chính cũng có có văn bản gửi 6 Bộ là Xây dựng, Công Thương, GT&VT, KH&CN, TN&MT đề nghị xây dựng đề án thu phí bảo vệ môi trường đối với khí thải. Giải thích việc tiếp tục có văn bản đôn đốc các bộ về vấn đề này, đại diện Vụ Chính sách thuế của Bộ Tài chính cho biết do các bộ Xây dựng, GT&VT “chưa xây dựng được đề án thu phí”.

Tuy nhiên, khi đó, Bộ Xây dựng đã có văn bản bày tỏ quan điểm việc thu phí bảo vệ môi trường đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp nói chung và ngành xây dựng nói riêng là chưa đủ cơ sở để đề xuất thu phí. Theo Bộ Xây dựng, phương án thu phí bảo vệ môi trường đối với khí thải cần được nghiên cứu kỹ với tình hình thực tiễn hiện nay, để đảm bảo tính khoa học và khả thi trong quá trình thu phí. “Việc thu phí bảo vệ môi trường đối với khí thải cần xác định rõ mục tiêu của việc thu phí, tránh chồng chéo về đối tượng chịu phí”, Bộ Xây dựng lưu ý.
Nghị định 40/2019 quy định về cấp giấy phép xả khí thải ra môi trường. Nhưng do thiếu thông tin, thiếu cơ sở dữ liệu về khí thải và Bộ TN&MT chưa có hướng dẫn cụ thể về việc cấp giấy phép này.
Đề nghị bốn đối tượng thu phí không khí
Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) phối hợp với chuyên gia trong Mạng lưới Không khí Sạch (VCAP) đưa ra tài liệu ủng hộ việc thu phí khí thải để giảm ô nhiễm không khí, trong đó xác định bốn đối tượng thu phí.
Một là các cơ sở sản xuất công nghiệp, giao thông, xây dựng và đốt tự nhiên là những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng không khí. Bởi các cơ sở này là những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng không khí. Các nguồn ô nhiễm không khí từ lâu đã được xác định rõ trong các báo cáo hiện trạng môi trường hàng năm của Bộ TN&MT: Các cơ sở sản xuất phát thải các chất ô nhiễm không khí như PM2.5, SO2 , NOx , CO và các chất khác. Trong những năm qua, Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực, các ngành sản xuất phát triển mạnh mẽ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường không khí khi số lượng các nhà máy của một số ngành công nghiệp có lượng phát thải khí lớn đã tăng: Nhiệt điện (25 nhà máy); xi măng (hơn 60 nhà máy); thép (gần 50 nhà máy); hóa chất (hàng chục nhà máy) và hàng nghìn cơ sở sản xuất nhỏ tại các làng nghề tái chế kim loại, tái chế nhựa, tái chế giấy…

Hai là việc đốt rơm rạ, rác thải tại một số địa phương, đun than tại các hộ gia đình cũng là một nguyên nhân gây ô nhiễm không khí tại một số đô thị. Đốt rơm rạ sau khi thu hoạch còn phổ biến ở nhiều địa phương gây ô nhiễm bụi PM2.5 và các chất khác. Mấy năm gần đây, hiện tượng đốt rác bừa bãi đã xảy ra tại nhiều nơi, không chỉ tác động xấu đến môi trường mà còn ảnh hưởng trực tiếp sức khỏe của cộng đồng. Vẫn còn có một số lớn bếp than tổ ong được sử dụng tại nhiều hộ gia đình ở miền Bắc. Theo số liệu thống kê của Chi cục Bảo vệ Môi trường Hà Nội đến hết tháng 3/2020, tổng số hộ sử dụng bếp than tổ ong tại các quận huyện nội và ngoại thành là khoảng 19.334 hộ. Theo thống kê mỗi ngày các bếp than tổ ong tại Hà Nội tiêu thụ khoảng 528,2 tấn than, phát thải 1.870 tấn khí CO2 tương đương vào bầu không khí.

Ba là lượng ô tô xe máy lưu hành ngày càng nhiều, chất lượng xe máy không được kiểm soát đã phát thải một lượng lớn các chất ô nhiễm PM2.5, NOx , CO, VOC… Theo số liệu của Cục Đăng kiểm Bộ GT&VT, đến tháng 1/2020, cả nước có 35.537.700 xe máy, 3.693.167 xe ô tô đang lưu hành. Ô tô, xe máy là một trong những nguồn phát thải khí chính tại một số đô thị lớn. Tại Hà Nội, tính đến quý 1/2019, CSGT Hà Nội phải quản lý 6.649.596 phương tiện, trong đó xe máy chiếm 86% lượng phương tiện tham gia giao thông, chưa kể lượng xe máy lớn của các tỉnh ngày đêm đang tham gia giao thông. Tại TP Hồ Chí Minh, năm 2019 có khoảng 730.000 ô tô và 7,15 triệu xe máy. Nhiều xe máy cũ ít được bảo dưỡng định kỳ, không có chế độ kiểm định khói thải, không có niên hạn sử dụng.
Bốn là quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, gây ô nhiễm bụi tại nhiều nơi do hoạt động xây dựng. Rất nhiều nơi xây nhà cao tầng, khu đô thị, đường, cầu cống vỉa hè thiếu các biện pháp bảo vệ môi trường, các công trường không che chắn, không phun nước xe cộ khi ra vào công trường, không phun nước giảm bụi, vật liệu vương vãi khi vận chuyển trên đường.
SÁU NGHỆ