TÓM TẮT
Theo Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia dễ bị tổn thương nhất, theo đó, năng suất lao động, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, sẽ bị giảm 26% trong trường hợp phát thải cao và giảm 12% đối với kịch bản phát thải thấp[1]. Thiệt hại hàng năm do biến đổi khí hậu gây ra ước tính khoảng 1,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP)[2].
Để thực hiện các mục tiêu về giảm phát thải khí nhà kính và phát triển nền kinh tế theo hướng các-bon thấp, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ/ngành đã ban hành nhiều chính sách và thực hiện một loạt các hành động giảm phát thải khí nhà kính (KNK) trong năm (05) lĩnh vực có phát thải và khả năng hấp thụ KNK cao nhất gồm: 1-năng lượng; 2-nông nghiệp; 3-sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp; 4-chất thải và 5-quá trình công nghiệp. Bài viết này có mục đích giới thiệu tổng quan về công cụ định giá các-bon trên thế giới cũng như tình hình trên khai ở Việt Nam và một số khuyến nghị thúc đẩy việc định giá các-bon ở Việt Nam.
Implementation of carbon pricing tool in Vietnam: Current status and applicable content
ABSTRACT
According to the Intergovernmental Panel on Climate Change (IPCC), Vietnam is among the most vulnerable countries against climate change. Labour productivity, especially in the agricultural sector, is projected to decrease by 26% in the high-emission scenario and 12% in the low-emission scenario. The annual damage caused by climate change is estimated to be 1.5% of GDP. To achieve objectives related to reducing greenhouse gas emissions and developing a low-carbon economy, the government, prime minister, and ministries have implemented various policies and actions to reduce the greenhouse gas (KNK) emissions in five sectors that have the highest emissions and absorption, including 1-energy, 2-agriculture, 3-land use, land use change and forestry, 4-waste, and 5-industry. This article provides an overview of carbon pricing tools worldwide, the current status of implementation, and some recommendations to promote carbon pricing in Vietnam.
Đặt vấn đề
Theo kết quả kiểm kê khí nhà kính (KNK) quốc gia năm 2016 của Việt Nam, tổng lượng phát thải là 316,7 triệu tấn CO2tđ, trong đó các các lĩnh vực phát thải KNK lớn nhất theo thứ tự là năng lượng (205,8 triệu tấn CO2tđ), nông nghiệp-lâm nghiệp và sử dụng đất (46,69 triệu tấn CO2tđ); các quá trình công nghiệp (46,09 triệu tấn CO2tđ); chất thải (20,73 triệu tấn CO2tđ). Dự báo đến năm 2030, tổng lượng phát thải KNK của Việt Nam khoảng 927,9 triệu tấn CO2tđ, trong đó lĩnh vực năng lượng dự báo sẽ phát thải 678,4 triệu tấn CO2tđ theo kịch bản phát triển thông thường (BAU)[3].
Thực hiện mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính (KNK) theo yêu cầu của Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu (BĐKH), Việt Nam đã đệ trình Ban thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (UNFCCC) bản Đóng góp do quốc gia quyết định (NDC) vào ngày 08 tháng 11 năm 2022 với mục tiêu đến năm 2030 bằng nguồn lực trong nước sẽ giảm 15,8% lượng phát thải KNK so với kịch bản phát triển thông thường (BAU) và mức giảm sẽ tăng lên 43,5% nếu có sự hỗ trợ của quốc tế. Bên cạnh đó, tại Hội nghị các bên tham gia UNFCCC lần thứ 26 (COP26) tại Anh quốc vào tháng 11 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã cam kết Việt Nam đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 đã thể hiện Việt Nam đặt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, tích cực đóng góp có trách nhiệm cùng cộng đồng quốc tế bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất; nâng cao chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Theo đó, về giảm nhẹ phát thải khí nhà kinh, đến năm 2030 sẽ giảm 43,5% lượng phát thải so với kịch bản phát triển thông thường (BAU), đạt đỉnh phát thải vào năm 2035, sau đó giảm nhanh và đến năm 2050 đạt mức phát thải ròng bằng “0”.
Để đạt được các mục tiêu giảm phát thải KNK đã cam kết, Việt Nam cần đẩy mạnh việc tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng phát thải các-bon thấp, tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn. Bên cạnh việc tái cấu trúc nên kinh tế, việc triển khai các chính sách dựa vào thị trường, đặc biệt trong giảm phát thải KNK vai trò hết sức quan trọng nhằm huy động sự tham gia của khối tư nhân cũng như nguồn lực từ bên ngoài.
Tổng quan về định giá cac-bon
1. Các khái niệm cơ bản
Theo báo cáo “Hiện trạng và xu hướng định giá các-bon 2022”[4] do Ngân hàng Thế giới (World Bank) công bố vào tháng 5 năm 2022, định giá các-bon là một công cụ chính sách hiệu quả về chi phí mà các chính phủ có thể sử dụng như một phần của chiến lược khí hậu; là mức giá đặt ra cho phát thải khí nhà kính, mà tạo ra động lực tài chính để giảm lượng khí thải đó hoặc tăng cường loại bỏ. Qua kết hợp chi phí BĐKH vào quá trình ra quyết định kinh tế, định giá các-bon có thể giúp khuyến khích những thay đổi trong mô hình sản xuất, tiêu dùng và đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng các-bon thấp.
Thay vì chỉ định ai nên giảm lượng khí thải ở đâu và bằng cách nào, định giá các-bon đưa ra tín hiệu kinh tế và người phát thải sẽ tự quyết định xem có nên ngừng hoạt động gây phát thải của mình hay giảm lượng khí thải, hay tiếp tục phát thải và trả tiền cho lượng khí phát thải. Thông qua cách này, mục tiêu tổng thể về giảm phát thải khí nhà kính có thể đạt được một cách linh hoạt nhất và ít tốn kém nhất cho xã hội. Định giá các-bon cũng khuyến khích các bên sử công nghệ sạch và đổi mới thị trường, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế các-bon thấp.
Hiện có 02 hình thức định giá các-bon trực tiếp thường được áp dụng trên thế giới, cụ thể gồm:
– Hệ thống trao đổi tín chỉ các-bon (ETS-Emision Trading System) giới hạn tổng mức phát thải KNK và cho phép những ngành, lĩnh vực có lượng phát thải thấp bán hạn mức của họ cho ngành, lĩnh vực hoặc bên có lượng phát thải lớn hơn. Bằng cách tạo ra cung và cầu cho phép phát thải (thông qua trao hạn mức phát thải và tỷ lệ hạn mức cho phép trao đổi), ETS thiết lập giá thị trường cho phát thải KNK.
– Thuế các-bon trực tiếp định giá các-bon bằng cách xác định thuế suất đối với lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính hoặc đối với hàm lượng các-bon của nhiên liệu hóa thạch. Không giống như ETS, thuế các-bon không đảm bảo mức giảm phát thải tối đa nhưng lại cung cấp sự chắc chắn về chi phí biên của việc phát thải các-bon.
Vì thuế các-bon định giá trên mỗi tấn KNK thải ra, công cụ này khuyến khích doanh nghiệp giảm phát thải để hạn chế mức thuế phải nộp. Việc lựa chọn giải pháp nào sẽ phụ thuộc vào bối cảnh kinh tế của từng quốc gia.
Ngoài ra, còn có nhiều cách gián tiếp để định giá các-bon chính xác hơn, chẳng hạn như thông qua thuế nhiên liệu, loại bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa thạch và các quy định có thể đưa vào “chi phí xã hội của các-bon”. Trong đó, cơ chế bù trừ chỉ định mức giảm phát thải KNK từ các hoạt động dựa trên dự án hoặc chương trình, có thể được bán trong 1 ngành/ lĩnh vực, trong nước hoặc ở các quốc gia khác. Các chương trình bù trừ phát hành tín chỉ các-bon theo một giao thức kế toán và có cơ quan đăng ký riêng. Các khoản tín dụng này có thể được sử dụng để đáp ứng việc tuân thủ theo thỏa thuận quốc tế, các chính sách trong nước hoặc các mục tiêu về quyền công dân của doanh nghiệp liên quan đến giảm nhẹ KNK. Hiện nay một số tổ chức đã hình thành cơ chế trao đổi hay thị trường các-bon nội bộ nhằm tối ưu hóa mục đích giảm phát thải KNK của mình.
2. Tình hình thực hiện định giá các-bon trên thế giới
Thị trường các-bon được bắt nguồn từ Nghị định thư Kyoto của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, được thông qua vào năm 1997. Theo Nghị định thư Kyoto, các quốc gia có dư thừa quyền phát thải được bán cho hoặc mua từ các quốc gia phát thải nhiều hơn hoặc ít hơn mục tiêu cam kết. Từ đó, trên thế giới xuất hiện loại hàng hóa mới là các chứng chỉ giảm/hấp thụ phát thải khí nhà kính hay còn gọi là tín chỉ các-bon. Bên cạnh các-bon còn có các loại KNK khác nên, tín chỉ các-bon thường được quy đổi thành tấn các-bon tương đương (CO2tđ) để có thể trao đổi, mua bán. Cơ chế phát triển sạch (CDM) được xem là cơ chế quan trọng trong việc thực hiện Nghị định thư Kyoto. Tuy nhiên, từ năm 2020, theo Thỏa thuận Paris về BĐKH được các bên tham gia UNFCCC thông qua năm 2015, CDM không còn được áp dụng và sẽ được thay thế bởi cơ chế khác. Hiện nay việc chuyển đổi tín chỉ các-bon từ CDM vẫn đang được UNFCCC thảo luận và thị trường các-bon chủ yếu gồm hai loại chính:
– Thị trường các-bon bắt buộc (mandatory): Trên thị trường này, việc mua bán các-bon dựa trên cam kết của các quốc gia trong Công ước khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) để đạt được mục tiêu cắt giảm khí nhà kính. Thị trường này mang tính bắt buộc và chủ yếu dành cho các dự án trong cơ chế phát triển sạch (CDM), Cơ chế phát triển bền vững (SDM) hoặc đồng thực hiện (JI).
– Thị trường tự nguyện (voluntary): Nguyên tắc hoạt động của thị trường dựa trên cơ sở hợp tác thỏa thuận song phương hoặc đa phương giữa các tổ chức, công ty hoặc quốc gia. Bên mua tín chỉ tham gia vào các giao dịch trên cơ sở tự nguyện để đáp ứng các chính sách về môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp (ESG) để giảm dấu chân các-bon.
Báo cáo của Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD) công bố năm 2021 cho thấy năm 2018 mức trần thuế các-bon là 60EUR thì có 44 nước thành viên của OECD and các quốc gia thuộc nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20)- đóng góp 80% lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu (tính cho lĩnh vực năng lượng) có mức thuế các-bon bằng 19% của mức trần (hay mức thuế thực tế bằng 60*0,19= 11.4 EUR/tấn các-bon). Mức thuế các-bon cũng khác nhau giữa các lĩnh vực phát thải (Bảng 1).
Như vậy có thể thấy, một số quốc gia đã có lộ trình và đưa ra mức thuế các-bon chung nhưng tỷ suất thuế các-bon có thể áp khác nhau đối với các lĩnh vực. Ví dụ, thông tin tại Bảng 1 cho thấy, phát thải từ hoạt động giao thông đường bộ có mức thuế các-bon cao nhất ở cả 3 phương án (thấp với tỷ lệ 91% của mức 30 EUR/tấn CO2tđ; trung bình với tỷ lệ 80% của mức 60 EUR/tấn CO2tđ; ca với tỷ lệ 58% của mức 120 EUR/tấn CO2tđ). Trong khi đó, đối với ngành điện và công nghiệp tỷ trọng thuế các-bon được áp thấp nhất ở cả 3 phương án (Ví dụ: 9-10%; 5% và 3% tương ứng với mức thấp, trung bình và cao).
Theo số liệu thống kê của Ngân hàng thế giới[5], hiện nay có 70 sáng kiến về định giá các-bon (cụ thể là thuế các-bon và hệ thống trao đổi tín chỉ các-bon ETS) đã được triển khai trên thế giới, chiếm khoảng 23,17% tổng lượng phát thải các-bon toàn cầu (hay nói cách khác có khoảng 23,17% lượng phát thải KNK toàn cầu được kiểm soát thông qua hệ thống trao đổi tín chỉ các-bon và thuế các-bon). Tuy nhiên, giá các-bon giao dịch trên ETS cũng như mức thuế các-bon trên thế giới có sự khác biệt lớn. Ví dụ, mức thuế các-bon hiện nay cao nhất ở Thụy Sỹ với mức khoảng 120 USD/tấn tấn CO2tđ– cao hơn nhiều so với các quốc gia khác (Hình 1).
** Singapore có kế hoạch tăng thuế các-bon từ 36-58 USD/tCO2tđ vào năm 2030
*** Bảng British Columbia cam kết mức thuế các-bon bằng hoặc cao hơn mức trần của Liên bang Hoa Kỳ
Trên thế giới, nhiều quốc gia có thể sử dụng đồng thời 2 công cụ định giá: Thuế và ETS để giảm phát thải KNK- việc lựa chọn công cụ tùy thuộc vào cấu trúc nền kinh tế, lợi thế cạnh tranh. Thông thường ETS thường được các quốc gia có nền kinh tế mở, cần sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đối với thuế các-bon thường được áp dụng tại các quốc gia có thông lệ và hệ thống thuế nói chung, thuế môi trường nói riêng khá hoàn thiện.
Kết quả nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (2022) cho thấy tại thời điểm tháng 4 năm 2022 thì thuế các-bon ở một số quốc gia cao hơn giá trên ETS, cụ thể mức thuế các-bon (tính trên 1 tấn CO2tđ) của Thụy Điển, Thụy Sỹ và Liechtenstein ở mức 130 USD, trong khi đó mức giá các-nhất của ETS ở Anh quốc là 99 USD/tấn CO2tđ ( Hình 2). Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới cũng đưa ra dự báo mức giá tín chỉ các-bon vào năm 2030 sẽ giào động ở mức 50-100 USD/tấn CO2tđ.
Việt Nam là quốc gia đang phát triển và đã cam kết đến năm 2030 bằng nguồn lực trong nước sẽ giảm 15,8% lượng phát thải KNK so với kịch bản phát triển thông thường (BAU) và mức giảm có thể tăng lên 43,5% khi có sự hỗ trợ của quốc tế[8]. Bên cạnh đó, Việ Nam cũng cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, vì vậy để thực hiện các mục tiêu nêu trên, việc xây dựng và áp dụng công cụ định giá các-bon (thuế và thị trường các-bon trong nước) vừa là yêu cầu và là cơ hội mà Việt Nam cần xây dựng và triển khai thực hiện.
Triển khai và định giá cac-bon ở Việt Nam
- Thuế các-bon
Hiện nay, ở Việt Nam mới chỉ có Luật thuế bảo vệ môi trường, trong đó có thuế suất đối với một số loại nhiên liệu hóa thạch mà chưa có mức thuế đối với phát thải các-bon hay thuế các-bon như một số quốc gia khác. Thực tế, thuế các-bon là công cụ chính sách mới được đề cập ở Việt Nam trong những năm gần đây, mặc dù chưa có định hướng cụ thể của Trung ương về việc chuyển đổi sang áp dụng thuế các-bon nhưng với vai trò của thuế trong giảm phát thải KNK, bảo vệ môi trường, thực hiện nguyên tắc “người gây ô nhiễm môi trường” cho thấy việc xây dựng thuế suất và lộ trình áp dụng thuế các-bon là phù hợp với các chủ trương, chính sách có liên quan của Đảng, Nhà nước, cụ thể như:
– Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương năm 2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường đã thể hiện rõ quan điểm “quán triệt và vận dụng có hiệu quả các nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả chi phí để xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi trường; người được hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường phải có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”. Tiếp đó tại Kết luận số 56-KL/TW ngày 23 tháng 8 năm 2019 của Bộ Chính trị về việc Tiếp tục thực hiện Nghị quyết trung ương 7, khóa XI về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường. Theo đó nhóm nhiệm vụ, giải pháp về Nâng cao năng lực, hiệu quả thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm gồm: (i) Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm về tài nguyên, môi trường; kết hợp xử lý hành chính, hình sự với áp dụng công cụ kinh tế, thị trường để bảo đảm thực thi hiệu quả các chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai và quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, đã đề cập đến việc áp dụng công cụ kinh tế (bao gồm cả thuế, phí).
– Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về cơ cấu lại ngân sách, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính an toàn, bền vững. Với mục tiêu tổng quát: Cơ cấu lại ngân sách nhà nước và quản lý nợ công theo hướng bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô; tăng cường huy động, quản lý, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển văn hoá, con người, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trong khu vực và trên thế giới. Nghị quyết chỉ rõ nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng chiến lược và lộ trình cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công sau năm 2020 theo hướng “phát triển hệ thống thu đồng bộ, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế; cơ cấu thu bền vững; bảo đảm huy động đầy đủ, chủ động, hợp lý nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng”. Một trong những giải pháp đã được chỉ ra là “hoàn thiện chính sách thu gắn với cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước theo hướng bao quát toàn bộ các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu, nhất là các nguồn thu mới, phù hợp với thông lệ quốc tế; tăng tỉ trọng thu nội địa, bảo đảm tỉ trọng hợp lý giữa thuế gián thu và thuế trực thu, khai thác tốt thuế thu từ tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường…”.
– Ngoài ra, các Nghị quyết khác về “một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế”; “chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững”; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, Bộ Tài chính đang chủ trì việc sửa đổi Luật thuế bảo vệ môi trường và việc xem xét bổ sung thuế các-bon với thuế suất và lộ trình thực hiện có thể được thực hiện. Tuy nhiên, để quyết định lựa chọn một công cụ chính sách, đặc biệt là thuế/phí, thì đòi hỏi Việt Nam phải cân nhắc thận trọng để quyết định đảm bảo tính đồng bộ, tránh sự trùng thuế với thuế, gây tác động tiêu cực đến mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kích thích sản xuất, tiêu dùng đồng thời phù hợp với xu hướng quốc tế và lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế. Nếu thuế các-bon được đề xuất áp dụng, Việt Nam cần xem xét khung thuế suất tối đa và tối thiểu trước khi xác định tỷ lệ cho từng ngành, lĩnh vực và khu vực để có thể điều tiết phát triển kinh tế, ổn định xã hội thông qua chính sách thuế một cách linh hoạt, hiệu quả.
Việc áp dụng hay không áp dụng thuế các-bon ở Việt Nam là câu hỏi lớn cần được nghiên cứu, trả lời trên nhiều khía cạnh khác nhau. Nếu chỉ nhìn vào lợi ích của riêng thuế các-bon mang lại như tạo nguồn thu, thực hiện mục tiêu giảm phát thải như lý thuyết và kỳ vọng là chưa đủ. Thuế các-bon chỉ có thể được áp dụng khi Việt Nam thực hiện lộ trình tổng thể tái cấu trúc hệ thống chính sách tài chính thu – chi ngân sách theo quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ đã được đề ra trong Nghị quyết số 07 của Bộ chính trị năm 2017 nhằm giải quyết đồng bộ cùng lúc 2 mục tiêu là kích thích tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy đổi mới công nghệ, phát triển năng lượng sạch để giảm phát thải KNK cần thực hiện đồng bộ giảm các loại thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế vốn và chuyển đổi sang áp dụng các loại thuế đúng bản chất như thuế tài nguyên, thuế môi trường (trong đó có thuế các bon).

Thời gian qua, hệ thống các công cụ kinh tế, cơ chế tài chính liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính bao gồm thuế, phí, lệ phí trong các lĩnh vực đất đai, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên rừng và đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường đã được sử dụng theo hướng ngày càng phù hợp, đúng bản chất hơn, góp phần thể chế hóa các nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả chi phí để xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi trường; người hưởng lợi/sử dụng từ tài nguyên và môi trường phải có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường”. Cùng với đó, các chính sách ưu đãi về đất đai, vốn, lao động, khoa học và công nghệ, lệ phí trước bạ, thuế (thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất – nhập khẩu…) cho các hoạt động khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ hướng đến sử dụng hiệu quả tài nguyên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, và giảm phát thải khí nhà kính đã được quy định rõ hơn và mở rộng hơn góp phần tạo ra động lực để huy động sự tham gia của doanh nghiệp, người dân và các tổ chức trong việc khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, năng lượng, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Hình 3 trình bày tóm tắt một số công cụ kinh tế (bao gồm cả thuế và phí) đang được áp dụng tài Việt Nam trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển kinh tế trên cơ sở ưu đã về đất đai, vốn, thủ tục hành chính,…
Thuế các-bon chỉ có thể áp dụng trong điều kiện thông tin, dữ liệu về kiểm kê KNK được áp dụng. Trước khi áp dụng thuế các-bon cần ưu tiên sử dụng các công cụ kinh tế, cơ chế tài chính dựa vào thị trường như ưu đãi, hỗ trợ; trợ giá, nhãn sinh thái, tín dụng xanh, trái phiếu xanh, để thúc đẩy đầu tư, chuyển đổi công nghệ từ hướng nâu sang xanh. Thuế các-bon cũng nên áp dụng song song với việc phát triển và vận hành thị trường các-bon trong nước trong đó có thị trường trao đổi hạn ngạch (ETS), đồng thời cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành.
- Phát triển thị trường các-bon trong nước
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, tại Điều 139. Tổ chức và phát triển thị trường các-bon, khoản 1 nêu rõ “Thị trường các-bon trong nước gồm các hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon thu được từ cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” đây được xem là cơ sở quan trọng đển thực hiện định giá các-bon ở Việt Nam. Khoản 11 cũng nêu trách nhiệm của Chính phủ “quy định chi tiết Điều này, chi phí phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính, lộ trình, thời điểm triển khai thị trường các-bon trong nước phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Tiếp đó, Nghị định 06/2022/NĐ-CP ngày 07 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ quy định giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn, tại Điều 17 đã đề cập cụ thể về lộ trình phát triển, thời điểm triển khai thị trường các-bon trong nước. Theo đó, giai đoạn đến hết năm 2027 sẽ:
a) Xây dựng quy định quản lý tín chỉ các-bon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon; xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ các-bon;
b) Triển khai thí điểm cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các bon trong các lĩnh vực tiềm năng và hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
c) Thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ các-bon kể từ năm 2025;
d) Triển khai các hoạt động tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức về phát triển thị trường các-bon.
Giai đoạn từ năm 2028 trở đi sẽ
a) Tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ các-bon chính thức trong năm 2028;
b) Quy định các hoạt động kết nối, trao đổi tín chỉ các-bon trong nước với thị trường các-bon khu vực và thế giới. phát triển thị trường các-bon trong nước sẽ được xây dựng và vận hành.
Để tạo nền tảng cho việc vận hành thị trường các-bon trong nước, ngoài Luật Bảo vệ môi trường 2020, Nghị định 06/2022/NĐ-CP thì Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Theo đó, sẽ có gần 2000 cơ sở tuộc danh mục phải thực hiện kiêm kê KNK bao gồm 1.662 cơ sở thuộc ngành Công Thương, 70 cơ sở thuộc ngành Giao thông vận tải, 104 cơ sở thuộc ngành Xây dựng, 76 cơ sở thuộc ngành Tài nguyên và Môi trường. Sau khi có kết quả kiểm kê KNK đối với các cơ sở này, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ thực hiện việc phân bổ hạn mức phát thải cho các cơ sở phát thải tạo tiền đề cho việc trao đổi, mua bán trên thị trường các-bon trong nước.

Như vậy có thể thấy, so với thuế các-bon thị trường các-bon trong nước có lộ trình rõ ràng và cụ thể hơn (Hình 4). Trong khi thị trường các-bon trong được đang dựng bao gồm cả ETS thì thuế các-bon vẫn đang trong quá trình nghiên cứu để có thể lồng ghép vào quá trình sửa đổi Luật thuế bảo về môi trường.
Kết luận và khuyến nghị
Việt Nam dù đã và đang chuẩn bị cơ sở pháp lý, nền tảng thông tin cần thiết để áp dụng công cụ định giá các-bon góp phần chuyển dịch nền kinh tế theo hướng các-bon thấp, thực hiện cam kết đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Luật Bảo vệ môi trường 2020 và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật đã hình thành nền tảng pháp lý quan trọng để thúc đẩy việc áp dụng công cụ định giá các-bon, đặc biệt là ETS. Đối với thuế các-bon, cần có thêm nghiên cứu để đánh giá toàn diện hơn về tác động đến phát triển kinh tế, hiệu quả giảm phát thải KNK và lợi thế cạnh tranh quốc tế.
Dù đã có nhiều bài viết về định giá các-bon ở Việt Nam nhưng cả 2 hình thức là thuế các-bon và ETS hiện đang ở giai đoạn chuẩn bị mà chưa áp dụng thực tế. Thị trường các-bon trong nước, trong đó có ETS đã có lộ trình phát triển nhưng cần nhiều việc cần phải thực như phân bổ hạn mức phát thải, mức giá các-bon,….
Để thúc đẩy việc áp dụng công cụ định giá các-bon ở Việt Nam trong thời gian tới cần ưu tiên thực hiện một số khuyến nghị sau đây:
– Thực hiện việc phân bổ hạn ngạch và xác định mức giá trần theo lĩnh vực cho các cơ sở thuộc danh mục cơ sở phải thực hiện kiểm kê phát thải KNK;
– Nghiên cứu, đánh giá tác động đến khía cạnh chuyển đổi công nghệ, xã hội (việc làm, thu nhập) và tính cạnh tranh khi áp dụng hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải đối với các cơ sở phát thải lớn;
– Cần có lộ trình áp dụng mức giá các-bon phù hợp với quá trình chuyển đổi công nghệ, lợi thế cạnh tranh của từng ngành/lĩnh vực bắt buộc giảm phát thải KNK ở Việt Nam.
– Nghiên cứu, phân tích tác động tích lũy của cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM) mà Liên minh châu Âu và một số quốc gia khác dự kiến áp dụng đến các doanh nghiệp Việt Nam để có lộ trình điều chỉnh việc áp dụng công cụ định giá các-bon phù hợp.
– Nghiên cứu, xác định các rào cản về kỹ thuật để xác định thuế suất các-bon phù hợp để đạt được các mục tiêu tạo ra động lực cho việc đầu tư hiệu quả vào các phương án các-bon thấp, và tránh tác động tiêu cực lên mục tiêu phát triển và ổn định kinh tế, đồng thời xác định phạm vi thuế các-bon (nếu xây dựng) áp dụng lên các đối tượng chịu thế (lĩnh vực, các công ty và hộ gia đình) nhằm huy động sự tham gia của toàn xã hội trong nỗ lực chung để giảm phát thải KNK.
—————————————
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), Biến đổi khí hậu 2022: Tác động, Thích ứng và Tình trạng dễ bị tổn thương, 2022.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2020. Báo cáo kỹ thuật Kiểm kê quốc gia khí nhà kinh cho năm 2016
- Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2022. Báo cáo kỹ thuật xây dựng Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050.
- Chính phủ Việt Nam, 2022. Đóng góp do quốc gia tự quyết định cập nhật năm 2022.
- Chính phủ Việt Nam, 2022. Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07 tháng 01 năm 2022 quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn
- OECD, 2021. Efective Carbon Rate 2021
- Thủ tướng Chính phủ, 2022. Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2022 Ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính
- Thủ tướng Chính phủ, 2022. Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26 tháng 7 năm 2022 phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050.
- VCCI và Asia Foundation, Thích ứng để thành công: Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với doanh nghiệp Việt Nam, 8/2020.
- World Bank, 2022. State and Trends of Carbon Pricing 2022
———————————–
[1] Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), Biến đổi khí hậu 2022: Tác động, Thích ứng và Tình trạng dễ bị tổn thương, 2022.
[2] VCCI và Asia Foundation, Thích ứng để thành công: Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với doanh nghiệp Việt Nam, 8/2020.
[3] Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2022. Báo cáo kỹ thuật xây dựng Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến 2050.
[4] State and Trends of Carbon Pricing 2022
[5] https://carbonpricingdashboard.worldbank.org/
[6] World Bank, 2022. State and Trends of Carbon Pricing 2022
[7] World Bank, 2022. State and Trends of Carbon Pricing 2022
[8] Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật- nộp UNFCCC ngày 08 thán 11 năm 2022
Tác giả: Nguyễn Sỹ Linh – Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Theo TC AS&CS số in tháng 02/2023