23 C
Hanoi
Thứ Năm, 28 Tháng Ba, 2024

Bàn việc sử dụng tro, xỉ của nhà máy điện than

Print Friendly, PDF & Email

Sáng 3/10, tại thành phố Cần Thơ, Bộ Xây Dựng và Bộ Công Thương tổ chức hội thảo khoa học “Sử dụng tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng tại khu vực ĐBSCL”. Tham dự có đại diện lãnh đạo nhiều cơ quan trung ương và địa phương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và chuyên gia nước ngoài.

Bãi chứa tro, xỉ ở Duyên Hải đã gần đầy
Bãi chứa tro, xỉ ở Duyên Hải đã gần đầy

Chất thải thông thường
Thứ trưởng Bộ Công thương Hoàng Quốc Vượng khẳng định: “Tro, xỉ từ các nhà máy điện than không phải là chất thải nguy hại”. Nhưng ông thừa nhận, vấn đề tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy điện than đang là thách thức đối với việc phát triển bền vững và việc tổ chức hội thảo là nhằm tìm kiếm các giải pháp căn cơ để xử lý.
Cùng quan điểm, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Bùi Phạm Khánh nói: “Lượng tro, xỉ thải ra là thách thức rất lớn đối với môi trường cũng như sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nguy cơ trực tiếp là các nhà máy không có đủ bãi chứa tro, xỉ sẽ tác động xấu đến môi trường sống”. Ông Khánh nhấn mạnh: “Việc đẩy mạnh xử lý, sử dụng một lượng lớn tro, xỉ, thạch cao là yêu cầu cấp thiết hiện nay đối với Chính phủ, cũng như các bộ, ngành, các địa phương nơi có nhà máy điện than, đặc biệt đối các doanh nghiệp sản xuất điện than”.
Các báo cáo tại hội thảo cho biết, nước ta hiện có 21 nhà máy điện than hoạt động, mỗi năm tiêu thụ khoảng 45 triệu tấn than và thải ra hơn 16 triệu tấn tro xỉ, thạch cao. Mỗi nhà máy cần bãi chứa thải hàng chục héc-ta, tổng diện tích bãi chứa thải hiện đã hơn 700 ha. Dự kiến tới năm 2020 có thêm 12 dự án nhà máy điện than đi vào hoạt động, khi đó tiêu thụ khoảng 60 triệu tấn than và thải ra 22,6 triệu tấn lượng tro, xỉ, thạch cao.

Khu vực kho than và bãi chứa thải được Công ty Nhiệt diện Duyên Hải trồng nhiều cây xanh để hạn chế gây ô nhiễm Ảnh: THANH HẢI
Khu vực kho than và bãi chứa thải được Công ty Nhiệt diện Duyên Hải trồng nhiều cây xanh để hạn chế gây ô nhiễm Ảnh: THANH HẢI

Tại ĐBSCL hiện có 3 cụm nhiệt điện: Duyên Hải ở tỉnh Trà Vinh, Long Phú ở tỉnh Sóc Trăng và Sông Hậu ở tỉnh Hậu Giang. Trong đó, đã vận hành Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải I, III với tổng công suất lắp đặt 1.445 MW, hàng năm thải ra khoảng 1,8 triệu tấn tro, xỉ. Theo quy hoạch, đến năm 2020, các cụm nhiệt điện này có thêm 6 nhà máy, nâng tổng công suất phát điện lên 5.505MW, mỗi năm tiêu thụ 16,52 triệu tấn than và thải ra 4,13 triệu tấn tro, xỉ, thạch cao. Từ sau năm 2020 đến năm 2030 có thêm 9 nhà máy, nâng tổng công suất ện lên 18.225MW, mỗi năm tiêu thụ 54,68 triệu tấn than và thải ra 13,67 triệu tấn tro, xỉ, thạch cao.
Đại diện Tập đoàn Điện lực Việt Nam nêu những khó khăn cụ thể trong xử lý tro, xỉ. Nhà máy điện sử dụng than nội địa thải ra tro, xỉ chiếm 29% – 37,5% lượng than đầu vào, trong đó lượng tro bay chiếm 70-80% là khó tiêu thụ, còn xỉ đáy lò chiếm 20-30% dễ tiêu thụ hơn, số ít là thạch cao. Còn nhà máy điện sử dụng than nhập chỉ thải ra tro, xỉ 6-7%. Trong lúc việc tiêu thụ tro, xỉ của các nhà máy điện than ở phía Bắc tương đối tốt thì ở ĐBSCL còn trong giai đoạn “lấy mẫu thí nghiệm nhằm đưa ra phương án tiêu thụ cụ thể”.

Quang cảnh hội thảo sáng 3/10, ở Cần Thơ
Quang cảnh hội thảo sáng 3/10, ở Cần Thơ

Bế tắc ở ĐBSCL
Điển hình ở phía Bắc là tại 2 công trình thủy điện lớn Sơn La và Lai Châu, đã sử dụng công nghệ bê tông đầm lăn, với khối lượng tro bay tương đối lớn. Thủy điện Sơn La sử dụng xi măng Bút Sơn, tro bay Phả Lại, PG Conplast R, cốt liệu được nghiền tại công trường. Thủy điện Lai Châu sử dụng xi măng Bút Sơn và Yên Bình, tro bay Phả Lại, PG Conplast R, cốt liệu cũng nghiền tại công trường. Tổng khối lượng tro bay đã sử dụng tại 2 công trình này là 816.130 tấn.
Ngày càng có nhiều doanh nghiệp liên hệ với các nhà máy điện than phía Bắc để tiêu thụ tro, xỉ. Đó là Cty CP An Phú tại Nhà máy nhiệt điện Uông Bí, Cty CP Đầu tư Minh Phòng tại Nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn 1 để sản xuất phụ gia xi măng. Còn Cty TNHH 2TV Phú Sĩ tại Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh và Cty Tro bay Hàn Quốc ViNa Fly Ash tại Nhà máy nhiệt điện Phả Lại để sản xuất gạch không nung. Dùng tro, xỉ trộn bê tông có Cty CP Sông Đà Cao Cường tại Nhà máy nhiệt điện Phả Lại. Những nhà máy xi măng sử dụng nhiều tro, xỉ là Hoàng Mai, Bỉm Sơn, Nghi Sơn. Có 2 nhà máy điện than đã tiêu thụ hết tro, xỉ là Phả Lại và Ninh Bình.
Tình hình tiêu thụ tro, xỉ tại các nhà máy điện than ở ĐBSCL còn rất hạn chế. Tro bay của cụm nhiệt điện Duyên Hải được một số đơn vị ở TP Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai lấy về làm phụ gia xi măng nhưng chi phí vận chuyển lớn nên tiêu thụ không đáng kể. Từ khi nhà máy điện vận hành đến ngày 13/7/2017, lượng tro xỉ ở Duyên Hải mới tiêu thụ được 7,1% tổng lượng thải ra.
Đặc biệt, theo Tập đoàn Điện lực, các nhà máy trước đây thường xây dựng bãi thải lớn, đảm bảo nhà máy hoạt động 7-10 năm, cá biệt tới 25 năm như Nhà máy nhiệt điện Phả Lại. Còn các nhà máy mới đưa vào vận hành như tại Duyên Hải, theo quy định hiện nay, bãi thải chỉ đủ đảm bảo cho nhà máy hoạt động khoảng 2 năm. Cho nên, bãi chứa tro, xỉ ở Duyên Hải nay đã gần đầy tràn, ẩn chứa nguy cơ gây hại cho môi trường, đặc biệt là thủy sản vì nằm ở bờ biển.
Nhiều nghiên cứu cho biết, ở ĐBSCL, nhu cầu về vật liệu san lấp, gia cố nền đường là rất lớn. Hiện nay, nhiều công trình giao thông đã phải nhập cát từ Campuchia với giá rất cao. Cho nên, tìm kiếm vật liệu thay thế vật liệu tự nhiên (cát, đá) đã được đặt ra cấp bách. Đây chính là thị trường mới cho tro, xỉ của các nhà máy điện than để tìm đáp án bài toán nan giải.
Tại hội thảo, đại diện một số doanh nghiệp chuyên về vật liệu xây dựng nêu lên những khó khăn trong sử dụng tro, xỉ, thạch cao để sản xuất vật liệu xây dựng. Bên cạnh khó khăn về kỹ thuật, còn có những vướng mắc về cơ chế, chính sách.

THANH HẢI

Bài viết liên quan